Áp dụng pháp luật vào việc giải quyết tranh chấp trong kinh doanh ở nước ta hiện nay - Pdf 31

Đ Ạ I H Ọ C Q U Ố C G IA H À M Ỏ I
DẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA LUẠT

TRẦN MINH CHẤT

APDỤNG PHtP LUẬTVÀO VÉC
OẢI QOTtr TRANH CHẤP TRONG HNH DOAMH
0 HUỞC TA HIỆN


CH UYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 6. 01. 05

LUẬN VÃN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TIẾN SỸ NGUYỄN AM HIỂU

HÀ NỘI - 2001


LÒ! CAM ĐOAN
iyồi x i*i ca n t đtm n tú ìi dw nỹ ÙÙ'hJ i ếỈMỊý
tuỊpềUên

26

C hương I I - Giải quyết tranh chấp trong k in h doanh bằng
p h á p lu ậ t h ìn h sự, bằng con đường h à n h chính.
2.1

Khái niệm và bản chất của việc áp dụng pháp luật giải
quyết tranh chấp trong kinh doanh.

3

37

37


Trang
2.2

Thực trạng và hậu quả của việc áp dụng pháp luật hình
sự giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh.

2.3 Nguyên nhân của tình trạng áp dụng pháp luật hình sự để
giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh.

39
52

2.3.1

70

Đánh giá chung.......................................................................

70

3.2Kiến n g h ị........................................................................................

73

3.2.1

Đôi với quá trình xây dựng pháp l u ậ t .............................. .

3.2.2

Đối với

3.2.3

Đối với
pháp luật.

3.2.4

Đối với các trọng tài viên, thẩm phán, kiểm sát viên
và điểu ĩrơ viên.

việc tuyên truyền p h ổ biến pháp l u ậ t .....



83

4


L Ờ I m n Đ Ẩ iĩ

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong những nãm qua, dưới sự lãnh đạo Đảng và Nhà nước, cùng chính
sách m ở cửa nền kinh tế, đời sống của nhân dân ta được nâng lên rõ rệt. Đất
nước ngày càng đổi mới trong xu thế hội nhập với nền kinh tế trong khu vực
và thế giới. Đảng và Nhà nước ta luổn quan tâm đến việc tạo mọi điều kiện để
phát triển kinh tế. Các chủ trương, chính sách, hệ thống pháp luật... luôn được
đổi mới nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước trong tình hình
m ới.
Thực liền quá trình phát triển kinh tế ở nước ta đã chứng minh chủ
trương mở cửa, hội nhập của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Bản thân quá
trình hội nhập đỏi hỏi chúng ta cần xây dựng m ột hành lang pháp ]ý phù hợp
để đảm bảo cho quá trình phát triển kinh tế của nước ta đi đúng hướng. Yêu
cầu cấp thiết hiện nay là phải xây dựng, hoàn thiên m ột hệ thống pháp luật cỏ
vai trò kích thích sự phát triển kinh tế, đảm bảo tạo điều kiện cho sản xuất,
kinh doanh phát triển.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế đa thành phần, các tranh chấp
ironu kinh doanh cũng xuất hiện ngày càng phức tạp hơn. Vấn đề đặt ra hiện
nay là phải lựa chọn và áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp Irong
kinh doanh một cách chính xác và loại bỏ được những sai lầm, những tiêu cực
trong quá trình này tạo được lòng tin cho các chủ thể kinh doanh, đồng thời
phái huy được tính chủ động, tích cực, sáng tạo của họ trong quá trình đầu tư,
sản xuấL, kinh doanh. Khoa học luật xác định các tranh chấp trong kinh doanh

Áp dụng pháp luật giải quyết iranh chấp trong kinh doanh là việc tìm
kiếm lựa chọn những quy phạm pháp luật phù hợp để ngăn chặn, khắc phục
nhũng tranh chấp cụ thể phát sinh trong đời sống kinh tế. Vấn đề đặt ra là lựa
chọn đúng, áp dụng đúng pháp luật thì sẽ tác dụng rấl lởn, đáp ứng yêu cầu
cúa sự phát Iriển kinh tế. Ngược lại, lựa chọn sai, áp dụng sai (như lình trạng

6


áp dụng pháp luật hình sự, tình trạng can thiệp của các cơ quan hành chính
vào quá irình giái quyết tranh chấp trong kinh doanh...) tất yếu sẽ làm nảy
sinh những tiêu cực cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nghiên cứu việc áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp trong
kinh doanh ở nước ta đang là mối quan tâm của nhiều nhà khoa học. Bộ Tư
pháp, Trường Đại học Luật, Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam...
đã tổ chức hơn 10 cuộc hội thảo với chủ đề “ Chống “hình sự hoá” các quanhệ dân sự, kinh tế”;... đã có m ột số công trình nghiên cứu về giải quyết tranh
chấp trong kinh doanh của m ộl số nhà nghiên cứu được xuất bản như:
ự Tiến sỹ Nguyễn Am Hiểu và nhóm tác giả - Báo cáo kết quả nghiên cứu
đề tài khoa học thuộc dự án VIE/94/003 “Pháp luật giải quyết tranh chấp kinh
lế ở Việt Nam”. Hà Nội, tháng 10 năm 1996.
y

Nguyễn Thị Khế - Hợp đổng kinh tế và các hình thức giải quyết tranh

chấp kinh tế - Nhà xuất bản Đồng Nai. Năm 1997
/

Đào Văn Hội - Giai quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án - Nhà xuấl

bản chính trị quốc gia. Năm 1999.

y/ Bài “Hạn chế án oan do “hình sự hoá” các quan hệ kinh tế -dân sự” và
bài: “Những giái pháp khắc phục tình trạng “hình sự hoá” các quan hệ kinh tếdân sự và “dân sự hoá” các vụ án hình sự” đăng trên báo “Kinh doanh và pháp
luật” số 43 ngày 29 tháng 11 năm 1998.
■/ Bài “Diễn đàn doanh nghiệp lần thứ 15 - Chống hình sự hoá giao dịch
dân sự kinh tế” đăng trên Thời báo kinh tế số 130 ngày 30 tháng 10 năm 2000

Tuy nhiên, đối với vấn đề “hình sự hoá” và giải quyết tranh chấp trong
kinh doanh bằng con đường hành chính thì nhìn chung, các công trình, bài
viết mới chỉ phản ánh hiện tượng áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết tranh
chấp trong kinh doanh và khuyến cáo cần phải chấm dứt hiện tượng này, còn
nguyên nhân, bản chất của những hiện tưựng này vẫn chưa đưực phân tích
Ihấu đáo và có hệ thống. Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh là một lĩnh
vực rấl rộng. Trong luận văn này, chúng tôi chỉ khái quát chung về các hình
Ihức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh theo quy định của pháp luật kinh
tế và đi sâu vào vấn đề “Hình sự hoá”, “Hành chính hoá” các quan hệ kinh tế
với mục đích làm rõ thực trạng, nguyên nhân của các hiện lượng trên, từ đó
đưa ra một số kiến nghị nhằm khắc phục những hiện tượng trên góp phần đảm
hảo cho giải quyết tranh chấp trong kinh doanh được thực hiện đúng pháp
luật.
3. M ục đích nghiên cứu của luận văn.
Xác định những vấn đề chung cỏ liên quan việc áp dụng pháp luậl để
giải quyết các tranh chấp Irong kinh doanh ở nước la hiện nay.

8


-

Thực trạng ap dụng pháp luật giải quyết-các tranh chấp trong kinh



-

Phưưng pháp chuyên gia....
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn.
Luận vãn nghiên cứu mộl cách hệ thống việc áp dụng pháp luật giải

quyốl các tranh chấp Lronii kinh doanh ử nước la hiện nay.
Luận văn đi sâu lìm hiểu thực Irạng, nguyên nhân, bản chất của việc áp
dụng các quy phạm pháp luậl hình sự, sự can thiệp của các cơ quan hành
chính vào quá Irình giái quyết các tranh chấp trong kinh doanh ở nước ta hiện

Đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao kốl quả áp dụng pháp luậl.
khắc phục những hiện lượng áp dụng sai các qui định pháp luậl hình sự, hành
chính... giải quyct các tranh chấp trong kinh doanh.

9


6. Nội dmig cơ bản của luận văn.
Để thực hiện dược m ục tiêu đã đặt ra, luận văn được xây dựng thành ba
chương.
Chương 1. Tranh chấp trong kinh doanh và pháp luật giải quyết tranh
chấp trơng kinh doanh.
Chương 2. Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng pháp luật hình
sự, bằng con đường hành chính.
Chương 3. Đánh giá chung và một số kiến nghị.

10



Tranh chấp trong kinh doanh là m ột tất yếu trong nền kinh tế hàng hoá.
Tmng nen kinh tế thị Inrờng, với sự tham gia của nhiều loại hình sở hữu khác
nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau, các quan hệ kinh tế cũng ngày
càng trở lên đa dạng và phức tạp. Sự đa dạng, phức tạp đó xuất phái bởi trong
mối quan hệ vừa hợp tác, vừa cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, các thương
nhân, các tổ chức kinh tế luôn luôn nảy sinh những m âu thuẫn về lợi ích mà
biổu hiện của nó là các tranh chấp kinh tế. Cùng với từng bước phát triển cúa
nền kinh tế thị trường, thì các tranh chấp trong kinh doanh ngày càng Irở lên
phong phú, gay gắt, phức tạp về tính chất, quy mô.
Như vậy, “Tranh chấp trong kinh doanh là m ột dạng tranh chấp kinh tố,
hiểu hiện những mâu ihuẫn hay xung đột về quyền, nghĩa vụ giữa các nhà đầu
lư, cáu doanh nghiệp, các dơn vị kinh lế với tư cách là các chủ thể kinh
doanh”(1;. v ề mạt bán chấl, tranh chấp trong kinh doanh chính là xung độl về
quyền hay lựi ích kinh tế giữa các hôn có quan hệ kinh doanh. Xung đột này
nảy sinh trong tất cả các giai đoạn của quá trình đầu tư, trong tổ chức sản xuấl
đến khai thác, chế biến, tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Các tranh chấp đổ được
biểu hiện dưới các dạng sau:
+ Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân,
giữa pháp nhân với các cá nhân có đăng kỷ kinh doanh.
Phap nhân là lơ chức có đủ các điều kiện được quy định tạiĐiều 94 Bộ luật dân sự năm 1995: “Một tổ chức được công nhận là m ộl pháp nhân khi
có đú các điổu kiện sau đây: Được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành
lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận; Có cơ cấu tổ chức chặl chẽ;
Có lài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng lài
sản đó; Nhân danh mình tham gia các các quan hệ pháp luật m ột cách độc
lạp” .
Cá nhân có đăni 2, ký kinh doanh theo quy định của pháp luật là ngưừi
được cấp giấy chúng nhận đăng ký kinh doanh.
1 ( ìiáo trìnli l.uặi kinh té Viội Nam - Nxb Đại liọc Quốc gia Mà Nội nam 1997 - Iran" 466


mới, trái phiếu mới sắp phát hành của công ty cổ phần.

13


+ Các tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Đây là các
Iranh chấp m à trong quá trình phát triển kinh tế các tranh chấp này sẽ phát
sinh, sẽ được pháp luật quy định và giải quyết.
Như vậy. tranh chấp trong kinh doanh là tranh chấp giữa các chủ Ihể
tham gia kinh doanh về các quyền và lợi ích kinh tế. Những tranh chấp này Ihể
hiện dưới các dạng khác nhau, ở các mức độ khác nhau và cần có các hình
Ihức giải quyết khác nhau. Thực tế ở nước ta đòi hỏi phải có sự lựa chọn và áp
dụng pháp luật giải quyết một cách phù hợp, đáp ứng yêu cầu phát triển sản
xuất, kinh doanh trong cả giai đoạn hiện lại và lương lai.
1.2

- Quá trình hình thành, phát triển pháp luật giải quyết tranh chấp tron

kinh doanh ở nước ta.
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh là quá trình sử dụng các cách
ihức, phưưng pháp, áp dụng các quy phạm pháp luật để khắc phục, loại trù’
các xung đột về quyền và lợi ích kinh tế giữa các chủ thể iham gia kinh doanh
(các tranh chấp phát sinh trong quá trình kinh doanh) nhầm bảo vệ quyền và
lợi ích hựp pháp cúa các chú thể kinh doanh, bảo vệ trật tự, kỷ cương xã hội.
Trong những điều kiện kinh tế khác nhau, thì quá trình hình thành và
phái tridn pháp luật về giải quyếl tranh chấp trong kinh doanh cũng khác nhau.
Thực lố cho thấy quá trình hình thành, phát Iriển của pháp luật về giải quyết
Iranh chấp Irong kinh doanh luôn gắn với nhiệm vụ quản ]ý kinh tế của Nhà
nước trong từng giai đoạn. Ở nước ta, do điều kiện, hoàn cảnh riêng của lịch
sử mà cơ chế kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước Irong đó có cơ chế

Ngày 10 tháng 8 năm 1981, Hội đổng hộ trưởng (nay là Chính phủ) ban
hành Nghị định số 24 - HĐBT về trọng tài kinh tế. Theo Nghị định này, Hội
đồng trọng lài kinh tè' đưực đổi thành Trọng tài kinh tế. Ngạch Irọng lài viên
được thực hiện, đánh dấu việc bãi bỏ chế độ trọng tài kinh tế kiêm chức. Để
lăng cường, củng cố vai trò của trọng tài kinh tế, ngày 14 tháng 4 năm 1984
Hội đổng bộ trưởng (nay là Chính phú) ban hành Nghị định 62-HĐBT quy
định chức năng, nhiệm vụ, quvền hạn và lổ chức của hộ máy Trọng lài kinh lô
các cấp. Điều đặc biệt là, bàng Nghị định này, Irọng lài kinh lố cấp huyện
dược ihành lập. Bál đầu lừ đây, hệ thống trọng tài kinh lế đã có các cấp lừ
Irung ương đến địa phương.

15


Như vậy, cỏ thể thấy, trọng tài kinh tế nước ta từ chỗ là cư quan nhà
nước cỏ chức nãng xứ lý vi phạm hợp đồng kinh tế (theo Nghị định số 20/TTg
ngày 14 tháng 1 năm 1960) đã trở thành cơ quan nhà nước có chức năng quản
lý công lác hợp đỏng kinh tế. Quá trình phát triển này phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh của sự phát triển kinh tế nước ta trong giai đoạn đó, phù hợp với
tiến trình xây ílựng, hoàn thiện của pháp luật về hựp đồng kinh tế. Hợp đổng
kinh tố ở nước ta, từ chỗ chi' đơn thuần là cổng cụ pháp lý phục vụ cung ứng
sản phẩm, vật tư, thiết bị giữa các đơn vị kinh tế, dần dần đã trở thành công cụ
pháp lý để Nhà nước quản lý nền kinh tế k ế hoạch. Hợp đồng kinh tế được coi
là công cụ hữu hiệu để xây dựng kế hoạch, thực hiện và đánh giá việc hoàn
thành kế hoạch của các đưn vị kinh tế.
Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập Irung, hợp đồng kinh tế là hựp
đổng kế hoạch. Nó mang tính pháp lệnh. Chú thể nào vi phạm hợp đổng kinh
tố tức là vi phạm kế hoạch nhà nước. Chính vì vậy, Trọng lài kinh lố nhà nước
là cơ quan có chức nãng quản lý nhà nước đối với công tác hựp đồng kinh tố
(Lhanh tra, kiểm tra việc ký kết, thực hiện hựp đồng kinh tế; giải quyếl các

- Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ về hợp đồng kinh tế và trọng lài kinh lố.
1 rong quá trình mở cửa nền kinh tế, các quan hệ kinh tế mới xuất hiện
ngày càng nhiều, đa dạng và phức tạp. Trong đó xuất hiện những quan hệ kinh
lố mang tính quốc lế. Từ đó cũng nảy sinh các yêu cầu mới đối với pháp luậl
giai quyết Iranh chấp kinh tế. Ngày 28 iháng 4 năm 1993, Thú iướng Chính
phù đã han hành Quyết định số 204/TTg thành ỉập Trung tâm trọng lài quốc lố
Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trên cơ sỏ
sát nhập Trọng tài ngoại thương và Trọng tài hàng hải.
Trong điều kiện phát Iriển nền kinh tế hàng hoá, Trọng tài kinh tế với tư
cách là cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về công tác hựp đồng kinh lố
không còn phù hợp nữa. Mặt khác, về cơ bản, các hợp đồng kinh tế trong nen
kinh tê thị trường không còn m ang tính kê' hoạch, tính pháp [ệnh như trước
đây. YC'U cầu đặl ra là phải dổi mới pháp ]uậl vổ hựp đồng kinh Lô và cơ chế
giải quyếl Iranh chấp kinh lê’. Ngày 28 iháng 12 năm 1993, lại kỳ họp Ihứ lư,
Quốc hội khoá IX đã ihông qua Luậl sửa đổi, hổ sung m ội sổ điều của Luật lổ
Ị Ĩ7 ' -ty
n w v r . '; f í !>-:
17

N
+ Giải quyết tranh chấp bằng toà án.
Trong luận vãn này, chúng tôi chỉ xin trình bày m ột số nội dung liên
quan đến giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài và giải quyết tranh
chấp bằng toà án. Đồng thời, luận văn sẽ đi sâu nghiên cứu về thực Irạng,
nguyên nhân của tình trạng giải quyếl Iranh chấp trong kinh doanh bằng pháp
luật hình sự và giải quyếl Iranh chấp trong kinh doanh bằng con đường hành
chính.
1.3.1

- Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng con đườn

trọng tài.
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng con đường trọng lài là mội
Lrorig những phương pháp giải quyết tranh chấp phổ biến ở các nước cỏ nền
kinh tế thị trường phát triển, ớ nước la, thực hiện đường lối đổi mới với chú
trương phái Iriển nền kinh tế nhiều thành phần thì yêu cầu đổi mới, hoàn thiện
các cơ quan tài phán kinh tế được đặt ra là m ột tấl yếu. Trong đó, việc cúng
cố. xây dựng tổ chức trọng lài kinh tố để giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh là một yêu cầu quan Uọng. Với việc hình thành các Trung tâm trọng lài
kinh Lố, tăng cường chức năng giải quyết tranh chấp cho Trung tâm trọng lài
kinh lế quốc tế đã tạo điều kiện thiết thực cho các chủ thể tham gia kinh
doanh hảo vệ đưực quyền và lựi ích hợp pháp của mình khi xảy ra tranh chấp.
Thực tế là không phải bất cứ tranh chấp nào cũng có thể thương lượng, Ihoả
thuận, hoà giải được, không phải bấl kỳ tranh chấp nào cũng đưa ra giải quyốl
hằng loà án mà các bên có thể thoả thuận lựa chọn hình thức giải quyếl tranh
chấp bằng trọng tài đổ đáp ứng yêu cầu của mình. Đây là m ộl phương Ihức
uiái quyếl tranh chấp do các hên thoả thuận lập ra nhằm giải quyết dứl điểm
các xung độl về quvền và lợi ích kinh Lố cúa các chủ thể tham gia vào tranh

chấp.

háo giải quyốt Lranh chấp phù hợp với những yêu cầu khách quan của sự phát
triổn kinh lố.

20


Ngày 28 tháng 4 năm 1993, Thủ tướng Chính phủ ra Quyếl định
2 0 4 /ITg về ihành lập Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, đặt bên cạnh
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trên cơ sở sát nhập Hội đồng
trọng tài ngoại Ihương (dã được thành lập theo Nghị định số 59-CP ngày 30
Iháng 4 nãm 1963 cứa Hội đồng chính phủ) và Hội đồng trọng tài hàng hải
Việt Nam (được thành lập theo Nghị định 153-CP ngày 5 tháng 10 năm 1964
cúa Hội đổng chính phú). Theo Quyếl định này ihì Trung tâm Irọng tài quốc lố
có Ihẩm quyền giải quyốl Iranh chấp kinh tế phát sinh từ quan hệ kinh lố quốc
lô như các tranh chấp liên quan đến Hợp đồng mua bán ngoại thương; tín
dụng, thanh toán quốc tế; chuyển giao công nghệ, đầu tư quốc tế và bảo
hiêm...
Đến ngày 16 tháng 2 năm 1996, tại Quyết định số 114/TTg, Thú tưỏng
Chính phú cho phép Trung lâm trọng tài quốc Lổ' Việt Nam được giải quyốl
lranh chấp trong kinh doanh không có yô'u tố nưỏc ngoài nếu eá.e bên tranh
chấp tự ihoả ihuận đưa vấn đề tranh chấp ra giải quyết tại Trung tâm trọng lài
quốc lế. Đây là môi C|uycl định hoàn loàn đúng đắn vì nó đáp ứng yôu cầu
phát Iriển của quá trình hội nhập, đảm hảo tăng cường tính linh hoạt, chú động
Irong hoại động giải quyếl tranh chấp trong kinh doanh của các tổ chức lài
phán kinh tế, góp phẩn làm cho các hoạt động kinh doanh phát triển.
Để giúp các nhà doanh nghiệp có điều kiện hưn trong việc bảo vệ quyền
lợi của mình khi xảy ra các tranh chấp trong kinh doanh và nhằm mục đích
nàng cao kết quá giải quyếl Iranh chấp trong kinh doanh bằng con đường
trọng tài, nịịày 5 iháng 9 năm 1994, Chính phủ đã ban hành Nghị định 116/CP
về tố chức và hoạt động của Trọng lài kinh lế. Căn cứ vào Nghị định này thì

do một Irọng tài viên đảm nhiệm.
Sau khi nhận đưực đơn, trong thời hạn bảy ngày, thư ký Trung tâm
trọnịi lài phải yửi bán sao đơn ycu cầu của bên nguyên đơn và danh sách trọng
tài viôn tham gia giai quyết tranh chấp cho bên bị đơn. Trong thời hạn đã được
Trung tâm trọng lài ấn định, bên bị dem phải gửi ván bản trả lời cho Trung lâm
Irọnu lài và cho hôn nguyên đon. Nội dung eúa vãn bản trả lời như nội dunu
vcu cầu của hên nguyên don. BỊ đơn cỏ thê gứi kèm iheo các tài liệu cần Ihiốt
khác cho Trung lâm irọng lài kinh Lê.

22


Nếu vụ tranh chấp
kinh lế cũng là tâl yếu cúa nén kinh lế thị trường, với mục đích đảm bảo các
quyổn tự do trong đó có quyền Lự do thoả thuận, định đoạl việc giải quyết các
Iranh chấp Irong kinh doanh.
Chơ đến nay, tổ chức và hoạt động của trọng lài kinh tế ở nước ta do các
vãn bản sau đây điều chỉnh:
- Điều lộ của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (ban hành kèm theo
Quyếl định 204/TTg ngày 28 tháng 4 năm 1993);
- Nghị định 116/CP ngày 5 tháng 9 nãm 1994 về tổ chức và hoạt động
cúa Trọng tài kinh lê Việt Nam;
- Thông tư số 02-PLDSKT ngày 3 tháng ] năm 1995 của Bộ tư pháp
hướng dẫn thi hành mộl số điểu của Nghị định số 116/CP;
- Quyết định 111-TTg ngày 6 Iháng 7 nám 1996 của Thủ tướng Chính
phú về việc mở rộng thẩm quyền giái quyếl tranh chấp của Trung tâm trọng
lài quốc tố Việt Nam;

24


- Quyết định 453 -QĐ/CTN ngày 28 tháng 7 năm 1995 của Chủ tịch
nước Cộng hoã xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc tham gia Công ước Niuoóc năm 1958 vổ công nhận và thi hành quyếl định của trọng tài nước ngoài;
- Pháp lệnh về công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng
lài nước ngoài mím 1996.
Như vậy, có thể Ihấy pháp luật về trọng lài phi chính phủ ỏ nước ta còn
đang trong quá trình hoàn thiện. Vì đang trong quá trình hoàn thiện nên nỏ
còn có những điểm hất cập, chồng chco.
Ví dụ: Nghị định 116/CP ngày 5 tháng 9 năm 1994 về tổ chức và hoại
động cua Trung Lâm trọng tài phi chính phủ mang tính chất chung nhưng lại
không áp dụng với Trung tâm trọng tài quốc tế đặt bên cạnh Phòng ihưưng
mại và công nghiệp Việt Nam mà Trung tâm trọng tài quốc tế lại hoạt động
theo Quyết định 204/TTg ngày 20 tháng 4 năm 1993. Điều đó càng trỏ nên


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status