Nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I - Pdf 32

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường đầy năng động như hiện nay, các doanh nghiệp đều phải
đối mặt với những khó khăn và nhiều thách thức lớn. Do đó, để tồn tại và phát triển, các
doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới tư duy, tác phong công việc và đặc biệt là đổi
mới khoa học công nghệ tiên tiến để nhanh chóng đáp ứng nhu cầu và xu thế thị trường.
Bên cạnh đó, sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
cùng các công ty trong nước làm cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay
gắt và khốc liệt hơn.
Qua thực tiễn nghiên cứu, em nhận thấy công tác phân tích tài chính tại các doanh
nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ chứng minh và khẳng định thế mạnh của các
doanh nghiệp mà còn góp phần đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế. Hơn nữa, có rất
nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình thực trạng tài chính của các doanh nghiệp với rất
nhiều mục đích khác nhau, chủ yếu là các nhà quản lý, nhà đầu tư và cá nhân, tổ chức
trực tiếp cho doanh nghiệp vay. Do đó sự chính xác, kịp thời và khoa học của công tác
phân tích tài chính doanh nghiệp cùng những dự án khả thi sẽ giúp các nhà quản trị tài
chính có chiến lược phát huy thế mạnh một cách hợp lý, sẽ tạo niềm tin vững chắc cho
các nhà đầu tư yên tâm rót vốn đầu tư và đặc biệt là thu hút một nguồn vốn dồi dào từ
những người cho vay.
Tuy nhiên công tác phân tích tài chính hiện nay chưa được các doanh nghiệp quan tâm
một cách thích đáng, cách thức tổ chức phân tích và phương pháp phân tích còn nhiều
vướng mắc. Là một sinh viên khoa Ngân hàng-Tài chính, nhận thức được tầm quan
trọng của việc phân tích tài chính doanh nghiệp và những kiến thức được trang bị trong
Đào Thị Thanh Thủy Tài chính doanh nghiệp 47B
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
suốt quá trình học, em mạnh dạn lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng công tác phân
tích tài chính của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I” nhằm đưa ra một số
biện pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả của công tác phân tích tài chính trên cơ sở
đánh giá tình hình tài chính của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp là việc thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các
thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh
giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó, khả năng và
tiềm lực của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính,
quyết định quản lý phù hợp.
Quá trình vận động và chuyển hoá các nguồn lực tài chính trong quá trình tạo lập và sử
dụng các quỹ tiền tệ thuộc hoạt động tài chính của doanh nghiệp diễn ra như thế nào, kết
quả kinh tế tài chính của sự vận động và chuyển hoá ra sao, có phù hợp với mục tiêu
mong muốn của các đối tượng quan tâm đến tài chính doanh nghiệp là đối tượng nghiên
cứu cụ thể của phân tích tài chính doanh nghiệp.
Vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà quản trị tài chính là bằng cách nào để duy trì sự
tồn tại của doanh nghiệp trong nền kinh tế đầy thách thức như hiện nay. Đó chính là
nguy cơ rủi ro phá sản của doanh nghiệp, được thể hiện chủ yếu và trực tiếp qua sự biến
động của các nhóm chỉ số khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn cũng như khả năng
sinh lãi của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh. Qua đó, các nhà quản trị
tài chính sẽ đánh giá một cách toàn diện về tình hình tài chính của doanh nghiệp và đưa
ra những dự báo chuẩn xác về kết quả hoạt động trong tương lai để từ đó có biện pháp
hỗ trợ, cải thiện tình hình tài chính doanh nghiệp tốt hơn. Có thể nói phân tích tài chính
được coi là cơ sở cho những dự báo tài chính trong tương lai của doanh nghiệp.
1.2. Chức năng của phân tích tài chính
Đào Thị Thanh Thủy Tài chính doanh nghiệp 47B
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Ngày nay phân tích tài chính đã trở thành một nội dung được các nhà quản lý quan tâm
và khai thác một cách triệt để nhằm phát huy tối đa tính hữu ích của công cụ này. Tùy
theo từng loại hình doanh nghiệp và mục đích nghiên cứu mà phân tích tài chính có

chính, từ đó có biện pháp xử lý kịp thời để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp một cách liên tục.
Chức năng thứ ba là điều chỉnh. Sự thực là hệ thống các quan hệ tài chính của doanh
nghiệp không phải luôn tồn tại dưới một hình thức truyền thống mà có thể biến hoá dưới
nhiều hình thái khác nhau tại các thời điểm và các giai đoạn khác nhau của nền kinh tế.
Các quan hệ tài chính này sẽ ổn định nếu doanh nghiệp biết duy trì sự kết hợp giữa các
nhân tố của chúng một cách hài hoà. Do đó, muốn quản trị tài chính một cách hiệu quả
cần phải hiểu rõ được nội dung, hình thức cũng như bản chất của các mối quan hệ tài
chính phát sinh. Phân tích tài chính sẽ giúp các nhà quản lý doanh nghiệp và các đối
tượng quan tâm khác nhận thức được vấn đề này.
Thứ tư là dự báo. Bên cạnh những chức năng trên, phân tích tài chính còn giúp doanh
nghiệp dự báo được tình hình tài chính trong tương lai. Bất kì một doanh nghiệp nào
trong quá trình hoạt động đều đặt ra những mục tiêu ngắn hạn và dài hạn trong tương lai,
do đó, nhờ những dự báo tài chính trên, doanh nghiệp có thể điều chỉnh mục tiêu sao cho
phù hợp nhất. Tuy nhiên, những dự báo tài chính này không phải là những dự báo chung
chung mà phải được chi tiết hoá bằng những con số để doanh nghiệp có chiến lược điều
chỉnh từng khoản cụ thể.
Với những chức năng trên, nhiệm vụ của bộ phận phân tích tài chính là phải cung cấp
những thông tin chính xác và đầy đủ về tất cả các mặt tài chính của mình. Hơn nữa, phân
tích tài chính doanh nghiệp để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp nhằm đảm
bảo và phân phối vốn cho sản xuất kinh doanh, hoặc để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
trong kinh doanh, tình hình thanh toán, tính toán và lượng hóa các nhân tố tác động đến
Đào Thị Thanh Thủy Tài chính doanh nghiệp 47B
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục và khai thác
triệt để tiềm năng của doanh nghiệp nhằm đạt được kết quả kinh doanh cao nhất.
1.3. Vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính của doanh nghiệp mà tiêu biểu là phân tích báo cáo tài chính của
doanh nghiệp là việc kiểm tra, đối chiếu và so sánh kết quả hiện tại với quá khứ trong

chính,…Để đưa ra quyết định dùng hoàn toàn vốn chủ sở hữu, vay nợ hay sử dụng kết
hợp nợ và vốn chủ sở hữu với tỷ lệ bao nhiêu, các nhà quản trị tài chính cần tính toán
tổng chi phí đối với mỗi phương thức huy động nhằm huy động với một mức chi phí
thấp nhất.
Phân tích tài chính cũng là công cụ để kiểm tra, kiểm soát hoạt động, quản lý trong
doanh nghiệp. Do đó, các nhà quản lý sẽ sử dụng công cụ này để đưa ra các chiến lược
tài chính ngắn hạn nhằm quản lý hoạt động tài chính hàng ngày của doanh nghiệp, chủ
yếu là liên quan đến việc quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Hơn nữa các hoạt
động tài chính gắn liền sự vận động của dòng tiền nhập quỹ và xuất quỹ, vì thế các nhà
quản trị tài chính cần xử lý để duy trì sự chênh lệch giữa chúng sao cho phù hợp nhất.
Như vậy, các nhà quản trị tài chính của doanh nghiệp là những người trực tiếp chịu trách
nhiệm về việc chỉ đạo các hoạt động tài chính và căn cứ vào thực trạng tình hình tài
chính để định hướng cho giám đốc doanh nghiệp trong việc đưa ra các quyết định đầu
tư, tài trợ hay kế hoạch chi trả cổ tức và dự báo tài chính. Các quyết định của các nhà
quản trị tài chính nhằm mục đích duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, tránh
khả năng phá sản, tăng khả năng cạnh tranh mở rộng thị phần, tối thiểu hoá chi phí, tối
đa hoá lợi nhuận và duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định. Doanh nghiệp có hoạt động hiệu
quả hay không là phụ thuộc nhiều vào sự đúng đắn của các quyết định của nhà quản lý.
Muốn làm được điều đó, bản thân các nhà quản trị tài chính trong doanh nghiệp cần đảm
bảo chất lượng công tác phân tích tài chính tốt nhất có thể.
Đào Thị Thanh Thủy Tài chính doanh nghiệp 47B
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.3.2. Đối với các nhà đầu tư vào doanh nghiệp
Trước hết, các nhà đầu tư cần biết những thông tin về tình hình tài chính của doanh
nghiệp để quyết định có nên đầu tư vào doanh nghiệp hay không. Họ có thể là những cổ
đông, cá nhân, các doanh nghiệp hoặc các đơn vị khác, và vấn đề quan tâm chủ yếu của
các nhà đầu tư là mức sinh lời của khoản vốn, thời gian hoàn vốn cũng như mức độ rủi
ro khi đầu tư vào doanh nghiệp.
Với doanh nghiệp cổ phần hóa, trước khi đưa ra quyết định đầu tư, các nhà đầu tư quan

hay không. Do đó, những người cho vay, họ quan tâm đến phân tích tài chính nhằm xác
định khả năng trả nợ (tức khả năng thanh toán lãi vay) của khách hàng. Trong nội dung
phân tích này, có sự khác biệt giữa khả năng thanh toán ngắn hạn và khả năng thanh toán
dài hạn. Nếu là các khoản vay ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm đến khả năng
thanh toán ngay của doanh nghiệp, nói cách khác thì đó là khả năng đối phó của doanh
nghiệp khi các khoản vay đến hạn phải thanh toán. Nếu là các khoản cho vay dài hạn,
người cho vay phải tin khả năng hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong
khi việc hoàn trả vốn và lãi lại phụ thuộc vào chính khả năng sinh lời này.
Nếu đứng ở vị trí các chủ ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác thì họ chủ yếu quan
tâm đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp mà điển hình là khả năng thanh toán tức
thời, khả năng chuyển hoá các tài sản ngắn hạn nhanh chóng thành tiền. Hơn nữa, họ
cũng quan tâm đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp, đặc biệt là tỷ trọng của vốn chủ sở
hữu trong tổng nguồn vốn, bởi lẽ nguồn vốn này chính là nguồn bảo hiểm cho khoản tiền
mà họ cho doanh nghiệp vay. Nhưng nếu là các nhà cung ứng vật tư hàng hóa, dịch vụ
cho doanh nghiệp, họ cần biết được khả năng thanh toán của doanh nghiệp hiện tại và
trong thời gian sắp tới để quyết định xem có nên cho phép khách hàng mua chịu hay
không.
Đào Thị Thanh Thủy Tài chính doanh nghiệp 47B
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Ngoài những đối tượng kể trên còn có những người lao động và các cơ quan quản lý
Nhà nước cũng rất quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Bởi lẽ, kết quả
hoạt động của doanh nghiệp tác động trực tiếp đến khoản thu nhập chính của người lao
động, và các cơ quan quản lý Nhà nước cần thực hiện phân tích tài chính để đánh giá,
kiểm tra và kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính có thực hiện
theo đúng chính sách, chế độ Nhà nước quy định hay không,…
1.4. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính vốn là một quá trình phức tạp đòi hỏi người phân tích phải có kiến
thức tổng hợp và có kế hoạch phân tích cụ thể, tỉ mỉ như: Lập quy trình phân tích tài
chính, chỉ rõ những thông tin phục vụ cho quá trình phân tích, phải xác định rõ phương

trung vào các thông tin trong bảng báo cáo tài chính. Tuy nhiên, khi có được các thông
tin cung cấp từ các nguồn khác nhau, các nhà phân tích phải xử lý thông tin theo góc độ
nghiên cứu của mình nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ các mục tiêu đề ra.
Bước ba là đưa ra kết quả phân tích. Đây là bước cuối cùng của quá trình phân tích tài
chính và điều quan trọng nhất là các nhà phân tích phải đưa ra các quyết định tài chính.
Bước này bao gồm các công việc cụ thể như sau: Viết báo cáo về tình hình tài chính của
doanh nghiệp; Nêu định hướng phát triển và các giải pháp khắc phục, cải thiện tình hình
tài chính của doanh nghiệp.
1.4.2. Những thông tin phục vụ cho quá trình phân tích tài chính của doanh
nghiệp.
Để có thể phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp một cách toàn diện và hiệu quả,
các nhà quản trị tài chính phải sử dụng rất nhiều thông tin từ các nguồn cung cấp khác
nhau. Những nguồn đó có thể là do chính bản thân doanh nghiệp cung cấp hoặc cũng có
Đào Thị Thanh Thủy Tài chính doanh nghiệp 47B
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thể là do những nguồn bên ngoài doanh nghiệp như các chế độ kế toán hiện hành, chuẩn
mực kế toán do Nhà nước ban hành và yêu cầu thực hiện,v.v…Những thông tin đó bao
gồm:
1.4.2.1. Thông tin hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Như đã nói ở trên, phân tích tài chính doanh nghiệp cần sử dụng rất nhiều thông tin từ
các nguồn khác nhau, bao gồm cả thông tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Trong
các nguồn thông tin nội bộ thì các báo cáo tài chính là nguồn thông tin đặc biệt cần thiết,
bởi lẽ các báo cáo tài chính là sản phẩm của quá trình thu thập, xử lý, tổng hợp thành.
a) Thông tin phản ánh trong bảng báo cáo tài chính
Các báo cáo tài chính có nhiệm vụ cung cấp cho người sử dụng những thông tin hữu ích
cho việc ra các quyết định kinh doanh, liên quan đến việc phân phối và sử dụng các
nguồn lực của đơn vị cũng như trong việc tính toán các chỉ tiêu tài chính khác. Và công
việc phân tích tài chính dựa vào các báo cáo tài chính đó được gọi là xử lý các báo cáo
kế toán. Thông thường cơ cấu của một bảng báo cáo tài chính bao gồm bốn bảng nhỏ:

TỔNG CỘNG TÀI SẢN TỔNG CỘNG NGUỒN VỐN
Nguồn QĐ số 15/2006/QĐ-BTC
Phần tài sản: Bao gồm tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Tài sản của phản ánh tiềm lực
mà doanh nghiệp có quyền quản lý, sử dụng dài hạn nhằm thu được lợi nhuận trong
tương lai (nếu đứng trên giác độ pháp lý), nhưng phần tài sản cũng cho phép đánh giá
quy mô vốn, năng lực sản xuất của doanh nghiệp (nếu xét trên giác độ kinh tế).
Phần nguồn vốn: Bao gồm phần nợ doanh nghiệp phải trả(ngắn hạn và dài hạn) và phần
vốn chủ sở hữu. Đứng trên giác độ pháp lý, phần nguồn vốn của doanh nghiệp khẳng
định trách nhiệm pháp lý về vật chất của doanh nghiệp đối với những cá nhân, tổ chức
cho doanh nghiệp vay hay các bên góp vốn với doanh nghiệp. Cụ thể hơn, phần nguồn
vốn phản ánh doanh nghiệp phải có trách nhiệm đối với số vốn đã đăng kí kinh doanh và
với các khoản nợ của mình. Đứng trên giác độ kinh tế, phần nguồn vốn phản ánh nguồn
hình thành nên tài sản, kết cấu nguồn vốn và cũng phần nào khái quát được khả năng
độc lập tài chính (qua cơ cấu vốn) và thực trạng tài chính của doanh nghiệp.
Đào Thị Thanh Thủy Tài chính doanh nghiệp 47B
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tóm lại, bảng CĐKT đã giúp các chuyên gia phân tích tài chính có cái nhìn tổng quát về
tình hình tài chính của doanh nghiệp, sự biến động của tài sản và nguồn vốn của doanh
nghiệp, tình hình phân bổ và sử dụng nguồn vốn cũng như khả năng thanh toán của
doanh nghiệp qua các khoản phải thu và phải trả.
Thứ hai là bảng báo cáo kết quả kinh doanh (BCKQKD). Một thông tin không kém phần
quan trọng được sử dụng trong phân tích tài chính là thông tin phản ánh trong
BCKQKD. Khác với bảng CĐKT, bảng BCKQKD cho biết sự dịch chuyển của tiền
trong quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng
hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. BCKQKD giúp các nhà phân tích so sánh
doanh thu với tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hóa, dịch vụ hoặc so sánh tổng chi phí
phát sinh với tổng số tiền xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp.Trên cơ sở doanh thu và
chi phí có thể xác định được kết quả sản xuất – kinh doanh là lãi hay là lỗ,…Như vậy,
BCKQKD phản ánh kết quả hoạt động sản xuất – kinh doanh, phản ánh tình hình tài

chưa được trình bày nhằm giúp cho người đọc phân tích các chỉ tiêu trong báo cáo tài
chính có một cái nhìn cụ thể và chi tiết hơn về sự thay đổi những khoản mục trong bảng
CĐKT và BCKQKD.Nó phản ánh đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp, kỳ kế toán và
đơn vị tiền tệ sử dụng khi trình bày báo cáo tài chính, những tuyên bố về chuẩn mực kế
toán và chế độ kế toán mà kế toán doanh nghiệp sử dụng để hình thành nên các bản báo
cáo tài chính, những vấn đề ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, các
chính sách kế toán mà doanh nghiệp đang sử dụng,…Bảng này trình bày 7 chỉ tiêu để cụ
thể hóa các chỉ tiêu trong bảng CĐKT. Những chỉ tiêu này bao gồm: Đặc điểm hoạt
động của doanh nghiệp (trụ sở và loại hình pháp lý của doanh nghiệp, Quốc gia đã
chứng nhận tư cách pháp nhân của doanh nghiệp, các tính chất nghiệp vụ, ngành nghề
kinh doanh và hoạt động chính của doanh nghiệp); chính sách kế toán áp dụng tại doanh
nghiệp (doanh nghiệp đang sử dụng chế độ kế toán theo Quyết định nào của Bộ Tài
chính và tình hình chấp hành các chuẩn mực kế toán của Nhà nước như thế nào); chi tiết
Đào Thị Thanh Thủy Tài chính doanh nghiệp 47B
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
một số chỉ tiêu trong báo cáo tài chính (sự thay đổi đột biến của các chỉ tiêu như tiền
mặt, hàng tồn kho,…); giải thích và thuyết minh một số tình hình và kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh (giải trình sự thay đổi của vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí trả
trước ngắn hạn và dài hạn,…); phương pháp lập một số chỉ tiêu đánh giá khái quát thực
trạng tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp (doanh nghiệp sử dụng phương
pháp nào để đánh giá tình hình tài chính của mình); đánh giá tổng quát các chỉ tiêu; các
kiến nghị. Qua bảng TMBCTC, tình hình thanh toán các khoản phải thu và phải trả là
một trong những chỉ tiêu phản ánh khá sát thực chất của hoạt động tài chính. Nếu phân
tích tài chính lành mạnh, doanh nghiệp có thể điều chỉnh các khoản phải thu để giảm hẳn
các khoản phải trả, tránh tình trạng tranh chấp, nợ kéo dài ảnh hưởng đến kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Sử dụng bản TMBCTC sẽ tăng tính khách quan và phù hợp của
các kết quả phân tích.
b) Những thông tin hỗ trợ khác
Đó là những thông tin về chiến lược, sách lược kinh doanh của doanh nghiệp trong thời

nhẹ, chính những cơ cấu này lại liên quan đến vòng quay vốn, lợi nhuận hay khả năng
sinh lời của doanh nghiệp).
b) Ảnh hưởng của chính sách tới hoạt động của doanh nghiệp
Nguồn thông tin này cũng rất phong phú và đa dạng. Chính sách của Đảng và Nhà nước
có thể có tác động tích cực nhưng cũng có thể gây khó dễ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh cho doanh nghiệp. Có thể đơn cử như chính sách của Chính phủ về hoạt động tín
dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp, nếu Chính phủ can thiệp tốt làm giảm lãi suất cho
vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ thì sẽ hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, cải thiện tình
hình tài chính của doanh nghiệp. Như vậy, chính sách của Nhà nước cũng là một trong
những yếu tố tác động đến tình hình tài chính của doanh nghiệp.
1.4.3. Phương pháp phân tích tài chính
Đào Thị Thanh Thủy Tài chính doanh nghiệp 47B
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Để tiến hành quá trình phân tích tài chính, các nhà phân tích phải sử dụng kết hợp rất
nhiều phương pháp phân tích khác nhau, có thể là phương pháp so sánh, phương pháp
đối chiếu, phương pháp đồ thị, phương pháp biểu đồ,…nhưng chủ yếu các nhà phân tích
sử dụng một số biện pháp cơ bản như: Phương pháp so sánh, phương pháp tỷ số và
phương pháp tài chính Dupont.
1.4.3.1. Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích tài chính để đánh giá kết
quả, vị trí và xu hướng biến đổi của các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp. Đây là công
cụ dùng để phân tích nhằm phản ánh khuynh hướng, tốc độ nhanh chậm của các chỉ tiêu.
Vì vậy, sự biến đổi cùng hướng hay ngược chiều với khuynh hướng tốt thì cần tìm hiểu
nguyên nhân rõ ràng để có biện pháp xử lý sao cho phù hợp nhất.
Thứ nhất, khi so sánh phải tồn tại ít nhất hai chỉ tiêu để tiến hành so sánh. Các chỉ tiêu sử
dụng phải đảm bảo so sánh được. Đồng thời, khi so sánh cần phải thống nhất về đơn vị
đo lường, thời gian tính toán và phương pháp tính toán.
Thứ hai, khi so sánh phải xác định được gốc so sánh. Gốc được sử dụng để làm đại
lượng so sánh có thể tại một thời điểm hoặc cũng có thể là kết quả tổng kết của một kì.

chính để lắp vào công thức tính; Giải thích ý nghĩa của tỷ số vừa tính toán; Đánh giá tỷ
số vừa tính(cao, thấp hay phù hợp); Rút ra kết luận về tình hình tài chính của doanh
nghiệp; Phân tích các nhân tố ảnh hưởng; Nêu các khuyến nghị và cuối cùng là viết báo
cáo phân tích.
Sử dụng phương pháp này sẽ giúp các nhà phân tích khai thác có hiệu quả các số liệu và
phân tích một cách có hệ thống hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo
từng giai đoạn. Phương pháp này sẽ cho hiệu quả phân tích cao nếu các điều kịên sử
dụng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Theo nguyên tắc, phương pháp này đòi hỏi
cần xác định các ngưỡng, các tỷ số tham chiếu. Để đánh giá tình hình tài chính của
Đào Thị Thanh Thủy Tài chính doanh nghiệp 47B
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
doanh nghiệp cần so sánh các tỷ số của doanh nghiệp với các tỷ số tham chiếu. Như vậy,
phương pháp này luôn được sử dụng với các phương pháp phân tích tài chính khác. Khi
phân tích, các nhà quản trị tài chính thường kết hợp phương pháp so sánh như so sánh
theo thời gian(so sánh các tỷ số của kỳ phân tích và các kỳ trước đó), theo không gian(so
sánh với tỷ số trung bình ngành, với tỷ số trung bình của các doanh nghiệp tương tự) để
đánh giá tình hình thực trạng tài chính của doanh nghiệp cũng như vị thế tài chính của
doanh nghiệp trong ngành kinh doanh.
1.4.3.3. Phương pháp tài chính Dupont
Nếu chỉ đánh giá riêng biệt bất cứ một loại chỉ tiêu tài chính nào đều không đủ để đánh
giá một cách toàn diện hiệu quả tài chính và thành quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Phải có quá trình tổng hợp phân tích các chỉ tiêu và nắm vững ý nghĩa của các chỉ số tài
chính thì mới đánh giá được một cách hợp lý và toàn diện tình hình tài chính của doanh
nghiệp. Do đó, trên cơ sở đã nắm vững các phương pháp đánh giá cơ bản năng lực kinh
doanh, năng lực thanh toán, khả năng sinh lợi,..của doanh nghiệp, nhà phân tích cần phải
đánh giá tổng hợp hiệu quả tài chính. Có rất nhiều phương pháp được sử dụng để tổng
hợp nhưng phương pháp chủ yếu nhất được các nhà phân tích quan tâm và ứng dụng là
phương pháp tài chính Dupont. Đây là phương pháp phân tích các chỉ số tài chính dựa
trên tỷ lệ so sánh với doanh thu được áp dụng rất hiệu quả tại công ty Dupont nên sau

DT TS

= PM × AU
Trong đó: PM là doanh lợi tiêu thụ phản ánh tỷ trọng lợi nhuận sau thuế trong doanh
thu của doanh nghiệp.
AU là hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
Đây là phương pháp mang nét đặc trưng riêng so với các phương pháp trên bởi chính ưu
điểm của nó là giúp các nhà quản trị tài chính biết được nguyên nhân chính dẫn đến sự
tăng giảm của ROE và ROA.
1.4.4. Nội dung phân tích
1.4.4.1. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp
Đào Thị Thanh Thủy Tài chính doanh nghiệp 47B
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Vốn của doanh nghiệp được chia thành hai loại: vốn cố định và vốn lưu động. Vốn nhiều
hay ít, tăng hay giảm, phân phối cho từng khâu, từng giai đoạn có phù hợp hay không sẽ
ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Phân tích
sự biến động của nguồn vốn (diễn biến nguồn vốn) và tình hình sử dụng vốn của doanh
nghiệp sẽ đánh giá được tình hình tăng giảm vốn, phân bổ vốn như thế nào và từ đó
đánh giá việc sử dụng vốn của doanh nghiệp có hiệu quả hay không. Một công cụ hữu
ích của các nhà quản lý tài chính là sử dụng là bảng tài trợ, từ đó sẽ có thể xác định được
nguồn cung ứng vốn và mục đích sử dụng vốn.
Trong phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, người ta thường hay xem xét sự
thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp trong một
thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập bảng cân đối kế toán. Để lập được bảng này,
trước hết phải liệt kê sự thay đổi của các khoản mục trên bảng cân đối kế toán từ đầu kỳ
đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở hai cột sử dụng vốn và nguồn vốn theo
nguyên tắc: Sử dụng vốn (tăng tài sản hoặc giảm vốn) và nguồn vốn (giảm tài sản hoặc
tăng vốn).
Khi phân tích diễn biến vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp, các nhà phân tích luôn

nguồn vốn và những nguồn chủ yếu được sử dụng để tài trợ cho nguồn vốn của doanh
nghiệp. Từ đó có biện pháp khai thác tốt các nguồn vốn và nâng cao sử dụng vốn của
doanh nghiệp.
1.4.4.2. Phân tích các tỷ số tài chính
Trong phân tích tài chính, phương pháp phân tích tỷ số tài chính thường được phân
thành bốn nhóm chính: Nhóm tỷ số về khả năng thanh toán, nhóm tỷ số về khả năng cân
đối vốn hoặc cơ cấu vốn, nhóm tỷ số về khả năng hoạt động và nhóm tỷ số về khả năng
sinh lãi. Hầu hết, các nhà phân tích tài chính thường quan tâm đến sự lành mạnh của tình
hình tài chính doanh nghiệp, khả năng chi trả các khoản nợ đến hạn hay không. Nhưng
Đào Thị Thanh Thủy Tài chính doanh nghiệp 47B
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tùy vào mục tiêu phân tích và ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp mà các
nhà phân tích sẽ đi sâu vào các nhóm tỷ số khác nhau. Ví dụ như đứng trên địa vị của
người cho vay, họ chỉ quan tâm chủ yếu đến nhóm khả năng thanh toán của doanh
nghiệp. Hoặc nếu là các nhà đầu tư vốn vào doanh nghiệp, những cổ đông, thì họ quan
tâm chủ yếu đến tỷ số khả năng sinh lãi của doanh nghiệp vì họ không trực tiếp quản lý
doanh nghiệp mà giao vốn cho các nhà quản lý, do đó cái đích cuối cùng mà họ quan
tâm là thu nhập thực mà họ thu được là bao nhiêu.
Các chỉ số tài chính cung cấp khá nhiều thông tin về tình hình tài chính doanh nghiệp
nhưng nó sẽ càng chính xác hơn nếu nó được so sánh trong một thời kỳ tương đối dài.
Bản thân các tỷ số chỉ là các con số nhưng nếu các nhà phân tích biết cách sử dụng nó
hiệu quả thì sẽ là những con số “biết nói”, và để làm được điều đó, các nhà phân tích
phải tìm hiểu được mối liên hệ giữa các nhóm tỷ số, có như thế thì kết quả phân tích mới
khách quan và toàn diện được. Mỗi nhóm tỷ số phân tích có thể chứa đựng rất nhiều các
chỉ số khác nhau nhưng việc chọn lựa chỉ số nào, số lượng bao nhiêu là tùy thuộc vào
quy mô của hoạt động phân tich.
1.4.4.2.1. Nhóm tỷ số về khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán là một thuật ngữ tài chính - kế toán dùng để so sánh giữa tài sản và
nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được coi là có khả năng thanh toán


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status