NGHIÊN cứu văn hóa CHĂM PHỤC vụ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH AN GIANG - Pdf 32

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Ngọc Thống

NGHIÊN CỨU VĂN HĨA CHĂM PHỤC VỤ
PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Ngọc Thống

NGHIÊN CỨU VĂN HĨA CHĂM PHỤC VỤ
PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH AN GIANG
Chun ngành: Địa lí học
Mã số: 60 31 05 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC
Người hướng dẫn khoa học
TS. Trịnh Duy nh

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2013


LỜI CAM ĐOAN

đã cung cấp cho tôi những tài liệu, tư liệu vô cùng hữu ích nhằm giúp tôi hoàn thành
đề tài nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn!

2


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 5
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 6
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................................. 6
2. Mục tiêu nghiên cứu ....................................................................................................... 7
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................................... 7
4. Giới hạn nghiên cứu ....................................................................................................... 8
5. Lịch sử nghiên cứu .......................................................................................................... 8
6. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu .................................................................... 10
7. Cấu trúc luận văn ......................................................................................................... 12

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VĂN HÓA VÀ DU LỊCH
VĂN HÓA .................................................................................................................. 14
1.1. Khái quát về văn hóa ................................................................................................. 14
1.1.1. Khái niệm về văn hóa ........................................................................................... 14
1.1.2. Các đặc trưng và bản chất của văn hóa ................................................................ 17
1.1.3. Chức năng cơ bản của văn hóa ............................................................................. 18
1.1.4. Phân biệt văn hóa và văn minh ............................................................................. 21
1.1.5. Các loại hình văn hóa ........................................................................................... 22
1.2. Khái niệm du lịch và du lịch văn hóa ....................................................................... 23

3.2.1. Giữ gìn và tôn tạo những giá trị văn hóa của dân tộc Chăm .............................. 104
3.2.2. Nâng cao nhận thức và đời sống cộng đồng địa phương ................................... 105
3.2.3. Đào tạo phát triển nguồn nhân lực ..................................................................... 106
3.2.4. Thu hút đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng – kĩ thuật phục vụ du lịch ................... 107
3.2.5. Tiếp thị, quảng bá du lịch ................................................................................... 108
3.2.6. Nghiên cứu, xây dựng chương trình du lịch....................................................... 109
3.2.7. Phát triển du lịch gắn với phát triển cộng đồng ................................................. 110
3.2.8. Giải pháp về bảo vệ môi trường ......................................................................... 111

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................. 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 116
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 118

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐBSCL:

Đồng bằng sông Cửu Long

HTX:

Hợp tác xã

Ql:

Quốc lộ

SCN:

Trong bốn dân tộc: Kinh, Khmer, Hoa, Chăm đang sinh sống ở An Giang thì
dân tộc Chăm chiếm tỉ lệ khoảng 12% so với tổng số dân tộc thiểu số và chiếm
0,65% tổng số dân toàn tỉnh (nguồn Dù số
lượng dân cư chiếm tỉ lệ rất ít nhưng những yếu tố văn hóa của người Chăm rất đa
dạng, có giá trị lớn trong phục vụ phát triển du lịch. Hiện nay đồng bào người Chăm
sinh sống tập trung tại 9 làng của các huyện: An Phú, Phú Tân, Châu Phú, Châu
Thành và thị xã Tân Châu. Trong đó, chỉ có làng Chăm Châu Phong (nơi có người
Chăm đến định cư đầu tiên trên đất An Giang), thuộc thị xã Tân Châu được sở Văn
hóa – Thể thao – Du lịch An Giang chú trọng triển khai dự án du lịch cộng đồng và
thành lập Trung tâm Thông tin Du lịch Châu Phong đặt tại địa phương.
Với những yếu tố văn hóa đặc thù riêng về tín ngưỡng, luật lệ, phong tục tập
quán,… Các làng Chăm tỉnh An Giang đã trở thành điểm đến để tham quan, nghiên
cứu của nhiều khách du lịch trong nước và quốc tế.
Tuy nhiên, việc khai thác văn hóa trong cộng đồng dân tộc Chăm nhằm phục
vụ phát triển du lịch là một bài toán khó, còn nhiều khó khăn và bất cập. Vì thực tế
những nét độc đáo trong văn hóa người Chăm nơi đây chưa được nhiều người biết
đến, hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật, nguồn nhân lực phục vụ du lịch còn thiếu và

6


yếu, cơ sở hạ tầng giao thông phát triển chưa đồng bộ,… Do đó, việc nghiên cứu đề
xuất định hướng và giải pháp nhằm phát triển du lịch gắn với văn hóa người Chăm
tỉnh An Giang trên cơ sở tìm hiểu về các yếu tố văn hóa và đánh giá hiện trạng hoạt
động du lịch là vấn đề hết sức cần thiết. Qua đó, những nét văn hóa độc đáo của
người Chăm tỉnh An Giang cũng được giữ gìn và phát huy tối đa, tạo ra những điểm
nhấn mới, nổi bật ở hiện tại và trong tương lai, góp phần tô thêm vẻ đẹp về sự đa
dạng của bức tranh văn hóa trong cộng đồng các dân tộc anh em ở tỉnh An Giang nói
riêng và cả nước nói chung.
Xuất phát từ những vấn đề trên, đó là lý do để tác giả chọn đề tài: “Nghiên

năm 2012 (các số liệu thu thập để phục vụ cho đề tài).
Về nội dung: Phân tích những nét độc đáo trong văn hóa Chăm nhằm phục vụ
cho phát triển du lịch An Giang. Đánh giá và đưa ra những đề xuất nhằm bảo tồn, duy
trì và phát huy tốt hơn các giá trị văn hóa của cộng đồng dân tộc Chăm.
5. Lịch sử nghiên cứu
Dân tộc Chăm là một trong 54 dân tộc anh em của Việt Nam, theo dòng lịch sử
người Chăm đã đóng một vai trò không nhỏ trong quá trình phát triển kinh tế xã hội
của đất nước, đặc biệt trong việc phát triển ngành du lịch nước nhà bởi những yếu tố
văn hóa rất đặc trưng của họ. Cho đến nay đã có nhiều tác phẩm, đề tài nghiên cứu về
người Chăm ở Việt Nam như:
Tác giả Nguyễn Văn Huy với tác phẩm: “Tìm hiểu cộng đồng người Chăm tại
Việt Nam”, xuất bản năm 2001, nghiên cứu về nguồn gốc lịch sử cộng đồng người
Chăm tại Việt Nam.
Tác giả Ngô Văn Doanh với tác phẩm: “Lễ hội chuyển mùa của người
Chăm”, xuất bản năm 2006, nghiên cứu về cả một hệ thống lễ hội chuyển mùa rất
đặc trưng của người Chăm tại Việt Nam.
Inrasara với tác phẩm: “Văn hóa xã hội Chăm – nghiên cứu và đối thoại”,
xuất bản năm 2008, nghiên cứu về mặt văn hóa xã hội và ngôn ngữ văn chương của
người Chăm ở Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Văn Tỷ với tác phẩm: “Đời sống văn hóa – xã hội người
Chăm ở Việt Nam”, xuất bản năm 2010, tác phẩm đã phân tích khái quát về văn hóa
Chăm, vấn đề giáo dục, thực trạng sinh hoạt tôn giáo, nguồn gốc địa danh và những
8


suy tư, trăn trở về một dân tộc có bản sắc văn hóa độc đáo.
Ngoài ra còn một số tác phẩm khác như: “Văn hóa Chăm – Nghiên cứu và
phê phán” của Sakaya (2010), “Luật tục người Chăm và Raglai” của giáo sư Phan
Đặng Nhật chủ biên (2003), “Lễ hội người Chăm” của Nhà xuất bản Văn hóa thông
tin Hà Nội (2003), “Nghề dệt cổ truyền người Chăm” của Nhà xuất bản Dân tộc Hà

bằng sông Cửu Long” của Phan Văn Dốp và Nguyễn Việt Cường phần nào giới
thiệu sơ lược nét hoạt động buôn bán trao đổi, nghề dệt thủ công, đánh cá nước ngọt
và cách làm nông nghiệp của người Chăm ở An Giang. Bên cạnh đó, chúng ta phải kể
đến một công trình nghiên cứu rất có giá trị của Lâm Tâm “Một số tập tục người
Chăm ở An Giang”, do Chi hội Văn nghệ dân gian và Hội văn nghệ Châu Đốc xuất
bản năm 1993. Trong tác phẩm này, nguồn gốc, đặc điểm, tập tục sinh hoạt văn hóa
và tín ngưỡng của người Chăm ở An Giang đã được tác giả khái quát một cách khá
toàn diện.
Nhìn chung, rất ít các tài liệu nghiên cứu về vai trò của các yếu tố văn hóa
người Chăm cũng như giá trị của nó trong việc phát triển du lịch. Đặc biệt đối với
người Chăm ở An Giang thì các công trình nghiên cứu quá hạn hẹp, có chăng là các
đề tài nói về đời sống xã hội chỉ được viết một cách khái quát dưới dạng giáo trình,
luận văn, bài báo,…Thêm vào đó, các đề tài nghiên cứu này cũng chưa đi sâu vào vấn
đề khai thác văn hóa người Chăm trong phát triển du lịch.
6. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
6.1. Quan điểm nghiên cứu
6.1.1. Quan điểm tổng hợp - hệ thống
Đây là quan điểm đặc trưng cho việc nghiên cứu khoa học bởi bản thân khoa
học và các đối tượng của khoa học địa lý đã mang tính tổng hợp, hệ thống.
Nghiên cứu văn hóa Chăm tỉnh An Giang trên cơ sở tổng hợp, hệ thống về văn
hóa của người Chăm. Từ những nét nổi bật về văn hóa Chăm để rút ra những nét tiêu
biểu, đặc thù về văn hóa Chăm ở An Giang. Đó là những cơ sở, căn cứ cho định
hướng phát triển du lịch trên nền tảng văn hóa Chăm tỉnh An Giang.
6.1.2. Quan điểm lãnh thổ
Trong quá trình nghiên cứu văn hóa Chăm, dựa trên cơ sở tổng hợp về văn hóa
của người Chăm trên cả nước nói chung và ở An Giang nói riêng. Từ đó đi sâu
nghiên cứu ở các khu vực mang nét đặc trưng điển hình về văn hóa Chăm ở tỉnh An
Giang. Từ đó có thể khai thác những lợi thế tiêu biểu về văn hóa để phục vụ du lịch.
10


Phương pháp này dùng để so sánh các số liệu thống kê qua các năm. Mục đích
11


của phương pháp này là đánh giá sự phát triển trong hoạt động kinh tế với hoạt động
phát triển du lịch của người Chăm trong những năm qua.
6.2.4. Phương pháp thực địa
Đây là phương pháp quan trọng, không thể thiếu đối với một đề tài nghiên cứu
khoa học, nhất là đối với ngành địa lí. Phương pháp khảo sát thực địa có thể giúp tác
giả thu thập thêm các thông tin, diễn biến về những hoạt động văn hóa – xã hội của
người Chăm trong quá trình hòa nhập, sinh sống với các dân tộc anh em ở Việt Nam.
Qua đó giúp tác giả có cái nhìn xác thực hơn về truyền thống văn hóa của người
Chăm để đánh giá mức độ tin cậy của các thông tin, số liệu đã cập nhật.
6.2.5. Phương pháp bản đồ và phương pháp sử dụng công nghệ GIS
Phương pháp bản đồ, biểu đồ là phương pháp truyền thống của khoa học địa lý.
Từ kết quả thu được, thành lập bản đồ, biểu đồ cho ta thấy sự phân bố, hiện trạng, cơ
cấu ngành... Do đó bản đồ là nơi thể hiện rõ nhất kết quả tổng hợp của đề tài. Cùng
với bản đồ, các biểu đồ được dùng để phản ánh quy mô các hiện tượng kinh tế, văn
hóa, xã hội như quy mô các ngành, các lĩnh vực. Sử dụng công nghệ GIS để số hóa
và vẽ bản đồ một cách chính xác mang tính khoa học cao và đáp ứng yêu cầu của đề
tài.
6.2.6. Phương pháp khai thác phần mềm công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin là một trong những phương pháp khá quan trọng và không
thể thiếu trong quá trình nghiên cứu cũng như giúp cho việc trình bày được rõ ràng
sạch đẹp và lôi cuốn hơn. Tác giả đã sử dụng phần mềm Microsoft Office để thiết kế
và xử lý thông tin dưới hình thức các văn bản, biểu bảng. Ngoài ra, mạng internet và
những thông tin, tài liệu trên mạng được tác giả sử dụng trong việc thu thập, tìm kiếm
các thông tin liên quan đến đề tài, giúp đề tài có nội dung phong phú hơn và có những
thông tin được cập nhật trong thời gian gần nhất.
7. Cấu trúc luận văn

Tuy vậy, việc xác định và sử dụng khái niệm văn hóa không đơn giản và thay
đổi theo thời gian. Thuật ngữ “văn hóa” với nghĩa “canh tác tinh thần” được sử
dụng vào thế kỉ XVII – XVIII bên cạnh nghĩa gốc là quản lí, canh tác nông nghiệp.
Vào thế kỉ XIX thuật ngữ “văn hóa” được những nhà nhân loại học phương
Tây sử dụng như một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn hóa (văn minh)
thế giới có thể phân loại ra từ trình độ thấp nhất đến trình độ cao nhất và văn hóa của
họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi họ cho rằng bản chất văn hóa hướng về sự vươn lên, sự
phát triển tạo thành văn minh, E. B. Taylor là đại diện của họ.
Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức
(trình độ văn hóa), chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (văn hóa Đông
Sơn),…Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả từ những sản phẩm tinh
vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động,…Chính cách hiểu rộng
này, văn hóa là đối tượng đích thực của văn hóa học.
Hiện nay, trên Thế giới ở các quốc gia có rất nhiều các tổ chức và chuyên gia
14


nghiên cứu về văn hóa đưa ra hệ thống các khái niệm về văn hóa và các vấn đề có
liên quan. Dưới đây, xin trích dẫn một số định nghĩa, khái niệm, quan niệm đã được
công bố trong những tài liệu như sách, giáo trình và công trình nghiên cứu về văn hóa
học.
Theo Taylor “văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về dân tộc người học nói
chung gồm có trí thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập quán và một số
năng lực, thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách là một thành viên
của xã hội.”
Theo định nghĩa này thì Taylor đã chưa phân tích rạch ròi giữa văn hóa, văn
minh nhưng trong định nghĩa của ông đã hàm chứa nhiều yếu tố mà các nhà nghiên
cứu đi sau nhắc đến như “tín ngưỡng”, “nghệ thuật”, “tập quán”, “năng lực” và “thói
quen” được con người chiếm lĩnh với tư cách là một thành viên của xã hội.
Hội nghị Quốc tế về văn hóa ở Mehico (1982) để bắt đầu thập kỉ văn hóa

đặc trưng căn bản phân biệt con người với động vật, đồng thời cũng là tiêu chí căn
bản phân biệt sản phẩm nhân tạo với sản phẩm tự nhiên. Văn hóa xuất hiện do sự
thích nghi một cách chủ động và có ý thức của con người với tự nhiên, nên văn hóa
cũng là kết quả của sự thích nghi ấy.
Thứ hai, sự thích nghi này là sự thích nghi có ý thức và chủ động nên nó không
phải là sự thích nghi máy móc mà thường là sự thích nghi có sáng tạo, phù hợp với
giá trị chân – thiện – mỹ.
Thứ ba, văn hóa bao gồm cả những sản phẩm vật chất và tinh thần, chứ không
chỉ riêng tinh thần mà thôi.
Thứ tư, văn hóa không chỉ có nghĩa là văn học nghệ thuật như thông thường
người ta hay nói. Văn học nghệ thuật chỉ là bộ phận cao nhất trong lĩnh vực văn hóa
mà thôi.
Trên cơ sở phân tích các quan niệm trên có thể kết luận: Văn hóa là sản phẩm
của con người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người
và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo ra con người, duy trì sự bền
vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua
quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và
tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của
xã hội. Nó được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động
của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
16


1.1.2. Các đặc trưng và bản chất của văn hóa

Tính hệ thống: Đặc trưng này tạo mối quan hệ giữa các hiện tượng, các sự kiện
thuộc một nền văn hóa, phát triển các quy luật hình thành và phát triển của văn hóa.
Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một thực thể bao trùm mọi hoạt động
của xã hội.
Tính giá trị: Là thước đo mức độ nhân bản của con người và xã hội. Các giá trị

tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian được đúc kết
thành những khuôn mẫu của xã hội và cố định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong tục
tập quán, nghi lễ,…
1.1.3. Chức năng cơ bản của văn hóa

Trong giới nghiên cứu, trình bày chức năng văn hóa không phải đã thống nhất
hoàn toàn. Một số tác giả nhìn nhận chức năng của văn hóa như sau:
Theo PGS.TS Tạ Văn Thành thì văn hóa có những chức năng về giáo dục,
chức năng nhận thức, chức năng định hướng đánh giá, xác định chuẩn mực điều
chỉnh cách ứng xử của con người, chức năng giao tiếp, chức năng đảm bảo tính kế tục
lịch sử.
Theo PGS.TS Trần Ngọc Thêm thì văn hóa có 4 chức năng cơ bản là: Chức
năng tổ chức xã hội, chức năng điều chỉnh xã hội, chức năng giáo dục, chức năng
phát sinh là đảm bảo tính kế tục của lịch sử.
Theo giáo trình “Văn hóa xã hội chủ nghĩa” của Học viện chính trị Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh (Nxb Chính trị Quốc gia, in lần 2, Hà Nội, 1995), trình bày
chức năng của văn hóa gồm: Chức năng giáo dục, chức năng nhận thức, chức năng
thẩm mỹ, chức năng dự báo, chức năng giải trí.
Sở dĩ có sự khác nhau trong cách trình bày các chức năng của văn hóa là do
gốc tiếp cận của từng tác giả khác nhau hoặc đó là cách nói khác nhau về cùng một
chức năng của văn hóa. Dưới đây ta có thể xem xét một số chức năng cơ bản của văn
hóa.
1.1.3.1.Chức năng giáo dục
Là chức năng bao trùm nhất của văn hóa. Chức năng tập trung của văn hóa là
bồi dưỡng con người, hướng lí tưởng, đạo đức và hành vi của con người vào “điều
hay lẽ phải, điều khôn, lẽ thiện”, theo những khuôn mẫu, chuẩn mực mà xã hội quy
định.
Văn hóa bao giờ cũng hình thành trong một quá trình và được tích lũy qua
18


Chức năng giáo dục của văn hóa phải được thực hiện thông qua chức năng của
19


nhận thức. Chức năng này tồn tại trong mọi hoạt động của văn hóa. Nói cách khác,
chức năng nhận thức là chức năng đầu tiên của mọi hoạt động văn hóa, thiếu nó
không thể nói tới chức năng nào khác. Nhưng quá trình nhận thức này của con người
trong các hoạt động văn hóa lại được thông qua đặc trưng, đặc thù của văn hóa. Nâng
cao trình độ nhận thức của con người chính là phát huy những tiềm năng ở con người.
1.1.3.3. Chức năng thẩm mĩ
Đây là một chức năng rất quan trọng của văn hóa, nhưng cũng là chức năng
hay bị bỏ quên, bị coi nhẹ, khi xem xét, điều hành, quản lí văn hóa. Cùng với nhu cầu
hiểu biết, con người còn có nhu cầu hưởng thụ, hướng tới cái đẹp. Con người nhào
nặn hiện thực theo quy luật của cái đẹp như Các-Mác từng khẳng định, cho nên văn
hóa nghệ thuật phải có chức năng này. Xét cho cùng, văn hóa là sự sáng tạo của con
người theo quy luật của cái đẹp, trong đó văn hóa nghệ thuật là biểu hiện tập trung
nhất sự sáng tạo ấy. Với tư cách là khách thể của văn hóa, con người tiếp nhận chức
năng này của văn hóa và sự thanh lọc mình theo hướng vươn tới cái đẹp và khắc phục
cái xấu trong mỗi người.
1.1.3.4. Chức năng giải trí
Là chức năng không thể không nói tới của văn hóa. Chức năng này cũng không
tách rời chức năng giáo dục và đi ra ngoài mục tiêu hoàn thiện con người. Bởi lẽ
trong cuộc sống, con người ngoài hoạt động lao động, còn có nhu cầu giải tỏa tinh
thần, tâm lí, sự mệt mỏi cơ bắp… Họ tìm đến các hoạt động văn hóa, câu lạc bộ, bảo
tàng, lễ hội… Nói khác đi là tìm sự giải trí. Trong một chừng mực nhất định, sự giải
trí ấy là bổ ích, cần thiết, góp phần giúp cho con người lao động sáng tạo có hiệu quả
hơn và giúp con người phát triển toàn diện. Chẳng hạn, sau một vòng quay mùa vụ
của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, đi hội, mở hội làng là nhu cầu của nông dân,
không chỉ đơn thuần là sự giải tỏa tâm linh mà còn là sự giải trí.
Với các chức năng trên, chứng tỏ văn hóa có một đời sống riêng, quy luật hoạt

một người nào đó có văn hóa cao là khen người đó có kiến thức hay học vấn cao. Khi
chê một người thiếu văn hóa có nghĩa là người đó ít học hay kiến thức kém.
Theo nghĩa hẹp thứ hai, văn hóa dùng để chỉ văn chương và nghệ thuật, trong
đó có đủ các bộ môn ca, nhạc, vũ, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, kịch trường, điện
ảnh. Nghĩa này khi nói tới một công trình văn hóa, tác phẩm văn hóa, trung tâm văn
hóa, nhà văn hóa, đêm văn hóa, trình diễn văn hóa, triễn lãm văn hóa.
Nghĩa thứ ba là nghĩa rộng, văn hóa chỉ phần sinh hoạt của loài người trong
lĩnh vực tinh thần. Đó là những học thuyết, những triết lý đưa dẫn suy tư của con
21


người lên một bình diện cao hơn đời sống vật chất hàng ngày. Những Khổng Tử, lão
Tử, Socrates, Platon… là những người đã nâng cao trình độ văn hóa của nhân loại.
Thêm vào đó là những niềm tin tôn giáo, những tin tưởng về những gì xảy ra trong
thế giới vô hình, có khả năng chi phối ngay trong và sau cuộc đời hiện tại. Văn hóa
thăng hoa của tinh thần khác biệt với những tiến bộ về vật chất được gọi là văn minh.
Văn minh là những tiến bộ về kỹ thuật nhằm cải thiện đời sống vật chất của
con người. Văn hóa bao gồm đạo đức, luân lý, tôn giáo nâng con người lên trong lĩnh
vực tinh thần. Văn minh là một phần của văn hóa, đặc biệt văn minh là tình trạng tiến
bộ của con người trong phạm vi kỹ thuật và những cải tiến đời sống vật chất.
Ngoài ra, trong từ điển, từ “văn minh” có thể được định nghĩa theo nhiều cách,
song chúng thường có một nét nghĩa chung là “trình độ phát triển”, trong khi văn hóa
luôn có bề dày của quá khứ (tính lịch sử). Văn minh cho biết trình độ phát triển của
văn hóa ở từng giai đoạn khác nhau. Nói đến văn minh, người ta còn nghĩ đến các
tiện nghi, hiện đại. Như vậy, văn hóa và văn minh còn khác nhau ở tính giá trị. Trong
khi văn hóa chứa cả giá trị vật chất lẫn tinh thần, còn văn minh chủ yếu thiên về các
giá trị vật chất mà thôi.
Sự khác biệt của văn hóa và văn minh về giá trị tinh thần và tính lịch sử dẫn
đến sự khác biệt về phạm vi. Văn hóa mang tính dân tộc còn văn minh mang tính
quốc tế, nó đặc trưng cho một khu vực rộng lớn hoặc cả nhân loại.

Official Travel Organization) được thành lập ở Hà Lan, đánh dấu bước ngoặc trong
việc thay đổi, phát triển các khái niệm du lịch.
Năm 1930, Glusman người Thụy Sĩ định nghĩa: “Du lịch chinh phục không
gian của những người đến địa điểm, mà ở đó họ không có chỗ cư trú thường xuyên”.
Hai học giả Hunziker và Krapf, những người đặt nền móng cho lí thuyết cung
– cầu du lịch, đưa ra định nghĩa: “Du lịch là tập hợp của các mối quan hệ và các hiện
tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài địa
phương, nếu việc lưu trú đó không thành cư trú thường xuyên và không liên quan đến
hoạt động kiếm lời”. So với các quan niệm trên, quan niệm của Hunziker và Krapf đã
thể hiện tương đối đầy đủ và bao quát các hiện tượng du lịch. Tuy nhiên quan niệm
này chưa làm rõ được đặc trưng của các hiện tượng và các mối quan hệ du lịch (kinh
tế, chính trị, xã hội…).
Tháng 6/1991, tại Otawa (Canada), Hội nghị Quốc tế và thống kê du lịch cũng
đưa ra định nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi
trường thường xuyên (nơi ở thường xuyên của mình), trong một khoảng thời gian ít

23



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status