Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin của các doanh nghiệp bất động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán việt nam - Pdf 33

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
________________________

CÔNG TRÌNH THAM GIA XÉT GIẢI THƯỞNG
“TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ VIỆT NAM”
NĂM 2014

Tên công trình: Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công
bố thông tin của các doanh nghiệp bất động sản niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam.
Thuộc nhóm ngành khoa học: Kinh doanh và quản lý 1

HÀ NỘI, 2014


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
______________________

CÔNG TRÌNH THAM GIA XÉT
GIẢI THƯỞNG “TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ VIỆT NAM”
NĂM 2014
Tên công trình: Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công
bố thông tin của các doanh nghiệp bất động sản niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam.
Thuộc nhóm ngành khoa học: Kinh doanh và quản lý 1
Họ và tên nhóm sinh viên:
1. Nguyễn Thị Mai Anh (Nữ) – Năm thứ: 3/4
Kế toán tiên tiến 53, Chương trình Tiên tiến, CLC, POHE
2. Đỗ Thu Huyền (Nữ) - Năm thứ: 3/4
Kế toán tiên tiến 53, Chương trình Tiên tiến, CLC, POHE
3. Thạch Diệu Hương (Nữ) - Năm thứ: 3/4

Bảng 4.3

Mức độ công bố của các chỉ mục

Bảng 4.4

Thống kê mô tả cho từng nhân tố

Bảng 4.5

Kiểm định đa cộng tuyến

Bảng 4.6

Mô hình hồi quy tuyến tính 1

Bảng 4.7

Tóm tắt mô hình 1

Bảng 4.8

Mô hình hồi quy 2

Bảng 4.9

Tóm tắt mô hình 2

Bảng 4.10


Công bố thông tin

HĐQT

Hội đồng quản trị

TP

Thành phố

VN

Việt Nam

BCTC
SGDCK
BĐS

Báo cáo tài chính
Sở giao dịch chứng khoán
Bất động sản


MỤC LỤC


1

TÓM TẮT
Đề tài tập trung nghiên cứu về mức độ công bố thông tin của các doanh

làm báo cáo tài chính định kì. Báo cáo tài chính bao gồm ít nhất bốn bản sau:
bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu
chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính. Nguyên tắc công bố thông tin
đầy đủ yêu cầu bất kì sự kiện nào có ảnh hưởng tới báo cáo tài chính đều phải
được công bố.
Để bắt kịp với sự phát triển nhanh chóng và sự cạnh tranh khốc liệt
trong thị trường toàn cầu, mỗi công ty sẽ cố gắng hết sức để tối đa hóa lợi ích
của người sử dụng, chẳng hạn như cung cấp thông tin minh bạch và dễ hiểu
(Laohapolwatana et al, 2005; Adina & Ion, 2008). Quyết định công bố thông
tin có thể kết nối một công ty với rất nhiều người sử dụng bên ngoài khác
nhau và có thể có tác động rất lớn và lâu dài tới hành vi của tất cả các bên liên
quan như các cá nhân, gia đình, đối thủ cạnh tranh, các chủ nợ, các nhà đầu
tư, thị trường, và nhiều nhóm khác liên quan đến các công ty lớn. Adina và
Ion (2008) kết luận rằng việc công bố cũng là một yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực xã hội và giảm thiểu sự nhiễu
loạn thông tin giữa công ty và người sử dụng bên ngoài. Đó là lý do tại sao
nghiên cứu về mức độ công bố thông tin kế toán là một mối quan tâm của các
nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách và quản trị doanh nghiệp.
1.2.

Mục đích nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Bài nghiên cứu phân tích về các nhân tố quyết định có ảnh hưởng đến

mức độ công bố thông tin kế toán của các công ty bất động sản niêm yết tại


3

thị trường chứng khoán Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Từ đó bài nghiên cứu
nhằm mục đích đưa ra gợi ý cho doanh nghiệp về quyết định công bố thông

khoán HN và TP HCM có báo cáo tài chính đáp ứng tiêu chí về mẫu.
• Lựa chọn các chỉ mục công bố thông tin và đánh mã.
• Đo lường mức độ công bố thông tin


4

• Thiết lập các biến và đo lường ảnh hưởng của các biến đến mức độ
công bố thông tin
• Thiết lập mô hình
• Phân tích dữ liệu thu thập được thông qua mô hình hồi quy bội.
1.5.
Cấu trúc bài nghiên cứu
Những phần tiếp theo của bài nghiên cứu được sắp xếp theo bố cục sau:
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về công bố thông tin và đo lường công
bố thông tin của doanh nghiệp.
Chương 3: Giả thuyết và phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Phân tích số liệu – Trình bày kết quả
Chương 5: Kết luận
1.6.
Tổng quan tài liệu nghiên cứu trước
Tầm quan trọng của việc công bố thông tin trong các báo cáo tài chính đã
được đề cập đến và nhấn mạnh trong rất nhiều các nghiên cứu trước đây. Ví
dụ, nghiên cứu của Hosian và VIJAY (2007); Văn Huynh (2013); Phương
Nguyên (2013); Aljifri (2008); Bình Tạ (2012); Alsaeed (2006); Cerf (1964);
Naser và cộng sự (2002); Singhvi (1968), vv.
Tuy nhiên, Hosain và Reax (2007) nghiên cứu báo cáo kết quả của một
cuộc điều tra thực nghiệm ở Ấn Độ. Nó cũng trình bày mối quan hệ giữa các
đặc điểm cụ thể công ty và mức độ công bố tự nguyện của các công ty mẫu.
Nghiên cứu cho thấy rằng các ngân hàng Ấn Độ tiết lộ một số lượng đáng kể

tin tự nguyện của các công ty bất động sản niêm yết Việt Nam. Nghiên cứu
báo cáo hàng năm của 199 công ty bất động sản niêm yết tại Việt Nam trong
năm 2009, bài nghiên cứu mở rộng các tài liệu hiện có về việc công bố tự
nguyện trong các nghiên cứu trước ở Việt Nam cũng như ở các nước phát
triển khác.
Aljifri (2008) đã kiểm tra mức độ công bố thông tin trong báo cáo hàng
năm của 31 doanh nghiệp niêm yết tại UAE và cũng xác định các yếu tố cơ
bản ảnh hưởng đến mức độ công bố. Nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng bốn
yếu tố chính sẽ ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tại UAE, đó là các
loại ngành (ngân hàng, bảo hiểm, công nghiệp và dịch vụ), kích thước (tài


6

sản), tỉ lệ nợ - vốn và lợi nhuận. Kết quả chỉ ra sự khác biệt đáng kể giữa các
ngành; tuy nhiên, kích thước, nợ, tỷ lệ nợ - vốn và lợi nhuận không có ảnh
hưởng đáng kể tới mức độ công bố.
Alsaeed (2006) đã nghiên cứu mối liên hệ giữa các đặc điểm cụ thể của
doanh nghiệp và mức độ công bố ở Saudi Arabia. Tổng cộng có 20 chỉ mục tự
nguyện để đánh giá mức độ công bố thông tin trong báo cáo hàng năm của 40
doanh nghiệp. Kết quả cho thấy trung bình chỉ số công bố thấp hơn so với
trung bình chung. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng kích thước doanh nghiệp có
ảnh hưởng tích cực đáng kể liên quan đến mức độ công bố; tuy nhiên, nợ,
phân tán quyền sở hữu, tuổi tác, lợi nhuận biên, loại ngành công nghiệp và
quy mô cơ quan kiểm toán thể hiện sự ảnh hưởng không đáng kể đến việc giải
thích sự biến động của mức độ công bố tự nguyện.
Cerf (1964) tiên phong nghiên cứu về mối quan hệ giữa mức độ công
bố thông tin của công ty và các đặc điểm của công ty. Ông sử dụng một mẫu
ngẫu nhiên 527 công ty tổ phần niêm yết và chưa niêm yết cho bằng chứng về
việc tuân thủ một số tiêu chuẩn tối thiểu của công bố thông tin. Các biến độc

minh hơn các công ty Mỹ. Ông cũng nhận thấy rằng các công ty có khả năng
tiết lộ thông tin chất lượng thấp ở Ấn Độ có thể sẽ là quy mô nhỏ, ít lợi nhuận
và do các nhà quản lý Ấn Độ quản lý.
Naser và cộng sự (2002) điều tra những thay đổi trong hoạt động công
bố thông tin của Jordan sau khi giới thiệu IASs và mối quan hệ giữa mười lăm
thuộc tính của công ty và chiều sâu của thông tin. Kết quả của các phân tích
cho thấy có một sự gia tăng nhỏ trong mức độ công bố thông tin sau sự ra đời
của IASs. Ông cũng phát hiện ra rằng độ sâu của việc công bố có liên quan
đến lợi nhuận, kích thước, tính thanh khoản, đòn bẩy tài chính và tình trạng
công ty kiểm toán.
Các nhà nghiên cứu xem xét các đặc điểm của công ty để dự đoán chất
lượng công bố thông tin của công ty đó. Các đặc tính phổ biến nhất là quy mô


8

của công ty, lợi nhuận, thanh khoản, đòn bẩy tài chính, quy mô cơ quan kiểm
toán, danh sách tình trạng, công ty mẹ đa quốc gia, tuổi tác và cơ cấu sở hữu.
Bài nghiên cứu của chúng tôi nghiên cứu về mức độ công bố thông tin kế toán
của các công ty bất động sản tại thị trường chứng khoán Việt Nam.


9

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC CBTT KẾ
TOÁN CỦA CÁC CÔNG TY BẤT ĐỘNG SẢN NIÊM YẾT TRÊN SỞ
GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN HÀ NỘI VÀ TP. HỒ CHÍ MINH
2.1. Khái niệm về CBTT kế toán
Việc CBTT là các thông tin bổ sung được cung cấp kèm với BCTC của
một công ty, thường là các thuyết minh cho hoạt động sản xuất kinh doanh có

công bố khác.
Phân loại theo tính chất bắt buộc hoặc tự nguyện:
- Thông tin công bố bắt buộc: Một số điều luật về vay mua nhà quy
định thông tin nào phải được công bố cho người vay tiền cũng như thời điểm
và cách thức CBTT.
- Thông tin công bố tự nguyện: Công bố tự nguyện trong kế toán là
việc cung cấp thông tin bởi ban lãnh đạo công ty dựa trên các chuẩn mực kế
toán và các quy định của Ủy ban Chứng khoán , được cho là những thông tin
đáng tin cậy cho việc đầu tư. Việc CBTT tự nguyện thường được nhiều công
ty sử dụng và là vấn đề quan trọng khi nghiên cứu BCTC.Trong các BCTC
này có thể bao gồm các thông tin về đặc điểm đặc thù của doanh nghiệp, các
chiến lược phát triển, các thông tin phi tài chính như trách nhiệm xã hội hay
các thông tin tài chính như giá cổ phiếu.
Phân loại theo mức độ xử lí:
- Thông tin sơ cấp: Là các BCTC được công bố ra công chúng.
- Thông tin đã qua xử lý: Là các số liệu thống kê được phân tích từ
thông tin sơ cấp, dành cho những mục đích sử dụng khác nhau.
2.3. Yêu cầu về CBTT kế toán
2.3.1. Yêu cầu về CBTT dựa trên Chuẩn mực kế toán
Trong khuôn khổ Chuẩn mực kế toán, yêu cầu đối với CBTT cho thấy có 4
thuộc tính quan trọng của việc CBTT kế toán:
- Dễ hiểu
Các thông tin và số liệu kế toán trình bày trong BCTC phải rõ ràng, dễ hiểu đối
với người sử dụng. Người sử dụng ở đây được hiểu là người có hiểu biết về kinh


11

doanh, về kinh tế, tài chính, kế toán ở mức trung bình. Thông tin về những vấn đề
phức tạp trong BCTC phải được giải trình trong phần thuyết minh.

tin này sẽ làm cho các BCTC không đáng tin cậy cho người sử dụng. .
Độ tin cậy của thông tin tài chính được tăng cường bằng cách sử dụng
các khái niệm kế toán và nguyên tắc sau đây:
+ Khách quan: Các thông tin trong BCTC phải được tự do không bị sai
lệch. Nó phải phản ánh một cái nhìn khách quan các công việc của công ty mà
không cần cố gắng để trình bày chúng trong một vẻ hào nhoáng nào cả.
Thông tin có thể được cố tình thiên vị hay thiên vị một cách hệ thống.
• Cố tình thiên vị: Xuất hiện trong những trường hợp và điều kiện gây ra quản
lý cố tình trần thuật sai BCTC.
• Thiên vị hệ thống: Xuất hiện nơi hệ thống kế toán đã phát triển một khuynh
hướng thiên vị các kết quả theo thời gian.
+ Trung thực: Thông tin được trình bày trong BCTC phải thể hiện đúng các
giao dịch và các sự kiện xảy ra trong một khoảng thời gian. Tính trung thực
khách quan yêu cầu giao dịch và các sự kiện cần đại diện cho tính chất kinh tế
thực sự của họ chứ không phải là hình thức pháp lý đơn thuần.
+ Thận trọng: Chuẩn bị BCTC đòi hỏi việc sử dụng các đánh giá chuyên môn
trong việc áp dụng các chính sách kế toán và ước tính. Tính thận trọng yêu
cầu kế toán phải thực hiện một cách cẩn trọng trong việc áp dụng các chính
sách và ước tính quan trọng. Các tài sản và thu nhập của đơn vị không được
phóng đại; không phát sinh trách nhiệm và chi phí không thuộc quy định.
+ Đầy đủ: Độ tin cậy của thông tin chứa trong các BCTC được thực hiện chỉ
khi thông tin kế toán hoàn chỉnh được cung cấp liên quan đến các nhu cầu
kinh doanh và quyết định tài chính của người sử dụng. Vì vậy, thông tin phải
đầy đủ trong tất cả các khía cạnh trọng yếu.


13

Thông tin không đầy đủ không chỉ làm giảm sự liên quan của các
BCTC mà còn làm giảm độ tin cậy của các BCTC khi người dùng căn cứ trên

cao với chuẩn mực kế toán quốc tế.
- Trung thực
Các dữ liệu thông tin và kế toán phải được ghi chép và báo cáo trên cơ
sở bằng chứng đầy đủ , khách quan và đúng với thực tế về hiện trạng , nội
dung , tính chất và giá trị của các giao dịch kinh tế phát sinh .
- Trung lập
Các dữ liệu thông tin và kế toán phải được ghi chép và báo cáo đúng với thực
tế, không bị bóp méo.
- Mức độ đầy đủ
Tất cả các giao dịch kinh tế, tài chính phát sinh liên quan đến kỳ kế
toán phải được ghi chép và báo cáo đầy đủ, không bị bỏ qua.
- Thời hạn
Các dữ liệu thông tin và kế toán phải được ghi chép và báo cáo kịp thời
hoặc trước thời hạn quy định, không chậm trễ.
- Dễ hiểu
Các thông tin và số liệu kế toán trình bày trong BCTC phải rõ ràng và
dễ hiểu cho người dùng. Người sử dụng hiểu rằng người dân ở đây có kiến
thức về kinh doanh, kinh tế , tài chính, kế toán trung bình . Thông tin về các
vấn đề phức tạp trong BCTC phải được giải thích trong thuyết minh BCTC.
- So sánh được
Thông tin về dữ liệu kế toán giữa các kỳ kế toán trong một doanh
nghiệp có thể so sánh được và phải được trình bày nhất quán. Trong trường
hợp có sự mâu thuẫn phải được giải thích trong các ghi chú cho người sử
dụng BCTC để so sánh thông tin giữa các kỳ kế toán, giữa các doanh nghiệp



15

2.3.2. Yêu cầu về CBTT trên BCTC

- Thảo luận Quản lý và phân tích (MD & A): Thảo luận về sự phát triển
lớn và những thay đổi trong năm có ảnh hưởng đến hoạt động tài chính và
tình hình của doanh nghiệp. SEC yêu cầu CBTT này được bao gồm trong các
BCTC hàng năm của các tập đoàn thuộc sở hữu công
- Thông tin phân khúc: Một báo cáo của doanh thu bán hàng và lợi nhuận
hoạt động (trước thuế suất và thu nhập , có thể trước chi phí cố định mà
không thể được phân bổ giữa các phân đoạn khác nhau ) cho các đơn vị lớn
của tổ chức, hoặc cho các thị trường khác nhau của nó ( ví dụ: quốc tế so với
trong nước…).
- Tóm tắt lịch sử: Một lịch sử tài chính kéo dài trở lại vượt quá 1 số năm
nhất định (thường là ba) bao gồm trong BCTC chính.
- Biểu đồ: biểu đồ xu hướng, và các biểu đồ đại diện cho các điều kiện
tài chính; hình ảnh của những người chủ chốt và các sản phẩm.
- Tài liệu đi kèm: Thông tin về công ty, sản phẩm của mình , các nhân
viên, và các nhà quản lý của nó, thường nhấn mạnh một chủ đề bao quát trong
năm. Hầu hết các công ty sử dụng BCTC hàng năm của họ như là một cơ hội
quảng cáo.
- Hồ sơ: Thông tin về thành viên quản lý hàng đầu và ban giám đốc. Tất
nhiên, tất cả mọi người gần như đủ điều kiện cho vị trí của mình. Thông tin
tiêu cực không được báo cáo.
- Tóm tắt quý về lợi nhuận và giá cổ phiếu chứng khoán: Hiển thị kết
quả tài chính cho tất cả bốn quý trong năm và phạm vi giá cổ phiếu cho mỗi
quý (theo yêu cầu của SEC).
- Báo cáo trách nhiệm quản lý: Một tuyên bố ngắn cho thấy rằng quản lý
có trách nhiệm chính trong các phương pháp kế toán được sử dụng để lập các
BCTC, để viết thuyết minh cho các BCTC, và cung cấp các thuyết minh khác
trong BCTC. Thường, tuyên bố này xuất hiện gần báo cáo của kiểm toán viên
độc lập CPA.
- Báo cáo kiểm toán độc lập: Các báo cáo từ các công ty CPA mà thực
hiện công việc kiểm toán, đưa ra ý kiến về tính công bằng của các BCTC và

dụng để đo lượng thông tin được công bố.


18

2.4.2. Đo lường mức độ CBTT
Trong nghiên cứu này, mức độ CBTT của từng công ty được tính như sau:

Trong đó:
- Ij là mức độ CBTT của công ty j
- Nj là số lượng thông tin được công bố bởi công ty j
- Xij có giá trị 1 nếu thông tin được công bố và có giá trị 0 nếu thông tin
không được công bố.
2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến CBTT kế toán
Phần này cung cấp cái nhìn chung về các yếu tố quyết định đến mức độ
CBTT. Theo Lopes và Lodrigues (2007), mức độ CBTT bị ảnh hưởng bởi cả
hai yếu tố bên ngoài và bên trong. Các yếu tố bên ngoài bao gồm nền văn hóa,
hệ thống chính trị và pháp lý, trình độ phát triển của nền kinh tế , v.v… ; yếu
tố bên trong thuộc về đặc điểm của từng công ty như quy mô, cấu trúc, tình
hình tài chính và cả đặc điểm của kế toán và quản lý.
Nghiên cứu này tập trung vào các yếu tố bên trong hoặc đặc điểm của
từng công ty mà không xem xét các yếu tố bên ngoài. Giả định rằng tất cả các
công ty bất động sản niêm yết trên SGDCK Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh được điều tra trên nền tảng đó, các nhà nghiên cứu nhấn mạnh ảnh
hưởng về đặc điểm của từng công ty trên phạm vi CBTT.
Các nhà nghiên cứu phân chia đặc điểm của từng công ty thành 3
nhóm: đặc điểm về tài chính, đặc điểm về quản trị và cấu trúc sở hữu .
 Đặc điểm về tài chính
• Quy mô doanh nghiệp




20

động giám sát của chủ nợ. Thứ ba, mức độ CBTT cao hơn sẽ lấy lại niềm tin
của các cổ đông.
Tuy nhiên, trên thực tế, có một số nghiên cứu trước đây cho thấy kết
quả trái ngược. Mối quan hệ thuận chiều có thể được tìm thấy trong nghiên
cứu Bradbury (1990), nghiên cứu Naser (1998), .v.v… Ngược lại, một số
nghiên cứu cho thấy không có mối quan hệ giữa đòn bẩy tài chính với mức độ
CBTT, chẳng hạn như nghiên cứu của Hossain et al. (1994) hay Đoàn Nguyên
Trang Phương (2010 ), .v.v…
• Khả năng sinh lời
Có một tình trạng chung là các công ty sẵn sàng công bố những thông
tin tích cực liên quan đến lợi nhuận của họ. Điều này có thể được bắt nguồn
từ lý thuyết đại diện. Đó là việc các nhà quản lý của các công ty có lợi nhuận
CBTT rộng rãi để trình bày và giải thích cho các cổ đông rằng họ đang hành
động vì lợi ích tốt nhất của mình và biện minh cho các gói đền bù của họ.
Tương tự như vậy, quản lý của một công ty có lợi nhuận mong muốn công bố
thêm thông tin cho công chúng để quảng bá ấn tượng tích cực về hiệu năng
của nó (Ghazali và Weetman, 2006).
Mối liên hệ giữa lợi nhuận và mức độ CBTT cũng đã được nghiên cứu
trong các nghiên cứu trước đó (Wang và cộng sự, 2008). Và Marston và
Polei, 2004). Ghazali và Weetman (2006) lập luận rằng các công ty có lợi
nhuận càng cao thì khả năng CBTT tài chính càng lớn. Marston và Polei
(2004) cũng nhấn mạnh "tin tốt" rằng các công ty được khuyến khích khẳng
định mình đối với các công ty khác bằng cách công bố thêm thông tin.
• Khả năng thanh toán hiện hành
Khi tính thanh khoản ảnh hưởng đến mức độ CBTT, có hai xu hướng
xảy ra. Khỉ chỉ số thanh khoản cao, các công ty có xu hướng tăng mức độ


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status