Điều tra thành phần côn trùng bắt mồi, đặc điểm sinh học, sinh thái của loài bọ rùa hai mảng đỏ (lemnia biplagiata swartz) trên ngô vụ đông xuân tại huyện anh sơn tỉnh nghệ an - Pdf 33

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
--------------

NGÔ ĐỨC HIẾU

ĐIỀU TRA THÀNH PHẦN CÔN TRÙNG BẮT
MỒI, ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, SINH THÁI CỦA
LOÀI BỌ RÙA HAI MẢNG ĐỎ (Lemnia
biplagiata Swartz) TRÊN NGÔ VỤ ĐÔNG XUÂN
TẠI HUYỆN ANH SƠN TỈNH NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP

NGHỆ AN, 2015


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
--------------

NGÔ ĐỨC HIẾU

ĐIỀU TRA THÀNH PHẦN CÔN TRÙNG BẮT
MỒI, ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, SINH THÁI CỦA
LOÀI BỌ RÙA HAI MẢNG ĐỎ (Lemnia
biplagiata Swartz) TRÊN NGÔ VỤ ĐÔNG XUÂN
TẠI HUYỆN ANH SƠN TỈNH NGHỆ AN

luận văn thạc sĩ này.
Ngoài ra, tôi còn nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi của
Lãnh đạo và cán bộ thuộc Chi cục Kiểm dịch thực vật vùng VI, Cục Bảo vệ
thực vật về thời gian cũng như kinh phí để học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn về tất cả những giúp đỡ quí báu đó.
Cuối cùng, tôi muốn giành sự biết ơn đặc biệt đến gia đình, bạn bè và
đồng nghiệp – những người đã luôn động viên và tạo mọi điều kiện để hoàn
thành bản luận văn.


5
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH LỤC CÁC BẢNG
DANH LỤC CÁC HÌNH
MỞ ĐẦU

i
ii
iii
v
vii

1.1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................

1
1

18

2.3. Vật liệu nghiên cứu ..............................................................................
2.4. Dụng cụ điều tra ...................................................................................

18
18

2.5. Nội dung nghiên cứu ……………………………………………….

19

2.6. Phương pháp điều tra, nghiên cứu ....................................................

19

Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Điều tra thành phần, mức độ phổ biến của các loài côn trùng bắt mồi

25

trên ngô vụ đông xuân tại địa điểm điều tra ............................................
3.2. Phổ vật mồi và khả năng khống chế rệp ngô của loài bọ rùa hai mảng

31


6
đỏ trên cây ngô tại địa điểm điều tra ........................................................
3.3. Nghiên cứu đặc điểm hình thái, sinh học và sinh thái của loài bọ rùa

trên một số cây trồng ở Anh Sơn tỉnh Nghệ An

25
29
32

Bảng 3.4: Diễn biến mật độ bọ rùa hai mảng đỏ Lemnia biplagiata và tỷ
lệ hại của rệp ngô trên giống DK 6919 vụ đông 2014 tại huyện Anh Sơn,

33

Nghệ An
Bảng 3.5: Diễn biến mật độ bọ rùa hai mảng đỏ Lemnia biplagiata tỷ lệ
hại của rệp ngô trên giống DK 8868 vụ đông 2014 tại huyện Anh Sơn,

36

Nghệ An
Bảng 3.6: Kích thước các pha phát dục của bọ rùa hai mảng đỏ Lemnia
biplagiata Swartz
Bảng 3.7: Vòng đời của bọ rùa bọ rùa hai mảng đỏ Lemnia biplagata
Swartz với thức ăn là rệp ngô
Bảng 3.8: Khả năng đẻ trứng của bọ rùa hai mảng đỏ Lemnia biplagiata
Swartz
Bảng 3.9: Thời gian sống của trưởng thành bọ rùa hai mảng đỏ L.
biplagiata
Bảng 3.10: Tỷ lệ nở của trứng bọ rùa 2 mảng đỏ Lemnia biplagiata
Bảng 3.11: Khả năng ăn rệp ngô của ấu trùng bọ rùa 2 mảng đỏ Lemnia
biplagiata so với ấu trùng bọ rùa Nhật Bản Propylea japonica



9
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 3.1: Tỉ lệ phần trăm giữa các bộ côn trùng bắt mồi trên cây ngô tại tại
huyện Anh Sơn - Nghệ An
Hình 3.2: Các loài côn trùng bắt mồi phổ biến trên ngô tại tại huyện Anh
Sơn - Nghệ An

30
31

Hình 3.3: Diễn biến mật độ của bọ rùa hai mảng đỏ Lemnia biplagiata và
tỷ lệ hại của rệp ngô trên giống DK 6919 vụ đông 2014 tại huyện Anh Sơn,

34

Nghệ An
Hình 3.4: Diễn biến giữa mật độ của bọ rùa hai mảng đỏ Lemnia biplagiata
và tỷ lệ hại của rệp ngô trên giống DK 8868 vụ đông 2014 tại huyện Anh

37

Sơn, Nghệ An
Hình 3.5. Quan hệ giữa mật độ của loài bọ rùa hai mảng đỏ và bọ rùa 6 vằn
bắt mồi trên cây ngô tại Anh Sơn, Nghệ An vụ Đông xuân 2014-2015
Hình 3.6: Mối quan hệ giữa loài bọ rùa hai mảng đỏ với rệp ngô tại huyện
Anh Sơn, Nghệ An vụ Đông xuân năm 2014-2015
Hình 3.7 : Hình thái các pha phát dục của bọ rùa hai mảng đỏ Lemnia
biplagiata

Anh Sơn là một huyện miền núi thuộc miền Tây tỉnh Nghệ An, đây là huyện
được UNESCO đưa vào danh sách các địa danh thuộc khu dự trữ sinh quyển miền
tây Nghệ An.Vùng đất Anh Sơn nghiêng dần từ phía Tây về phía Đông, điểm cao
nhất là đỉnh núi Kim Nhan. Địa hình đồi núi có 41.416ha, chiếm 80% diện tích tự
nhiên. Phần còn lại là ruộng và đất bãi ven sông. Khí hậu mang những nét chung
của vùng nhiệt đới gió mùa và chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc và gió Phơn
Tây Nam Lào. Anh Sơn là huyện có diện tích trồng ngô lớn nhất tỉnh tập trung ở
các xã như Tường Sơn, Tam Sơn, Đỉnh Sơn, Hùng Sơn, Cẩm Sơn, Hoa Sơn, Đức
Sơn, Thạch Sơn, Vĩnh Sơn. Diện tích trồng ngô với 3.200 ha được sản xuất 2 vụ
chính trong năm và khoảng 1.000 ha ngô vụ 3, tổng sản lượng thu hoạch hàng năm
hơn 30.500 tấn ngô hạt. Ngô Anh Sơn không chỉ cung cấp nguồn nguyên liệu thức
ăn chăn nuôi cho địa bàn nội huyện mà còn xuất bán ra các địa phương khác, đem
lại nguồn thu đáng kể cho nông dân.
Cùng với việc tăng năng suất, sản lượng cây ngô, thì hình hình sâu hại ngô
cũng gia tăng, nhiều loại sâu hại thường phát dịch ở những ruộng ngô bị hạn vào


11
thời kỳ ngô sắp trỗ cờ, kết bắp. Trong khi đó, với trình độ hiểu biết hạn chế, người
nông dân liên tục sử dụng thuốc hóa học để diệt sâu hại, gây mất cân bằng sinh
thái, ô nhiễm môi trường, làm giảm chất lượng sản phẩm và tăng tính kháng của
nhiều loại sâu hại nguy hiểm, đặc biệt các loài rệp hại ngô. Thuốc hóa học không
những diệt sâu hại mà còn tiêu diện hết các loài thiên địch trên cánh đồng ngô
trong đó phải kể đến các loài côn trùng bắt mồi (Nguyễn Viết Tùng, 2006) [33].
Việc điều tra, nghiên cứu phòng trừ các loại sâu hại trên ngô là một yêu cầu
cấp bách trong thức tế sản xuất ngô hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải đánh giá hiện
trạng các loài côn trùng bắt mồi, tìm ra được các biện pháp phòng trừ sinh học, lợi
dụng tập đoàn côn trùng bắt mồi để phòng trừ sâu hại ngô nhằm tăng sản lượng,
chất lượng của ngô nhưng lại an toàn và bảo vệ môi trường sinh thái. Từ những yêu
cầu trong thực tiễn chúng tôi thực hiện đề tài: Điều tra thành phần côn trùng bắt

cứu một số đặc điểm sinh học, sinh thái học của loài bọ rùa hai mảng đỏ Lemnia
biplagiata Swartz tiến hành đề xuất biện pháp kiểm soát và phòng chống sâu hại
ngô một cách hiệu quả theo hướng tổng hợp nhằm đem lại hiệu quả kinh tế, xã hội
và môi trường.
Cung cấp dẫn liệu giúp người dân cũng như cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý
ở địa phương nhận biết, bảo vệ và sử dụng các loài côn trùng bắt mồi phòng trừ sâu
hại ngô trong quá trình sản xuất ngô đảm bảo an toàn cho người và gia súc.


13
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Những nghiên cứu về côn trùng bắt mồi trên ngô trên thế giới
1.1.1. Các nghiên cứu về thành phần loài và khả năng sử dụng côn trùng
bắt mồi trên ngô.
Thành phần loài côn trùng bắt mồi của các loài sâu hại trên cây ngô và các
nghiên cứu một số loài côn trùng bắt mồi phổ biến trong phòng trừ sinh học sâu hại
ngô cũng đã được nhiều tác giả nghiên cứu, cụ thể là 61 loài côn trùng bắt mồi sâu
hại ngô đã được ghi nhận, trong đó có nhiều loài có khả năng sử dụng cho hiệu quả
phòng trừ cao như bọ xít bắt mồi Oriorus sp. và bọ mắt vàng Chrysoperla sp. tại
California Environmental Protection Agency phòng trong năm 1975 (Coppel and
Mertins, 1977) [38]. Theo Lane (2000) [46] đã ghi nhận 7 loài bắt mồi quan trọng
trên ngô trong gồm Chrysoperla carnea, C. rufilabris, Chrysopa spp., ruồi ăn rệp
Aphidoletes aphidimyza và bọ rùa bắt mồi Hippodamia convergens. Các loài côn
trùng bắt mồi này là những tác nhân quan trọng và hiệu quả trong phòng trừ rệp
hại. Nghiên cứu các loài bắt mồi phổ biến cũng đã được nghi nhận gồm ruồi ăn rệp
Aphidoletes aphidimyza và bọ rùa bắt mồi Hippodamia convergens. Gillian
Ferguson (2005) [40] đã mô tả và nghiên cứu và ghi nhận một số loài như ruối ăn
rệp Aphidoletes aphidimyza, bọ rùa Hippodamia convergens, Harmonia axyridis và
bọ mắt vàng Chrysoperla sp. trên cây ngô. Để phòng trừ rệp Aphis gossypii, rệp

luận: Trong số các loài bắt mồi thì nhóm Phytoseiid được xem như một tác nhân
sinh học điều hòa sâu hại ngô có hiệu quả nhất và ưu thế nhất (Hill and Waller,
1988; Srivastava & Butani, 1987) [42], [50].
Đã ghi nhận 39 loài côn trùng bắt mồi thuộc các họ Reduviidae, Carabidae,
Coccillenidae, Vespidae, Formicidae. Đồng thời các tác giả cũng cho biết sự tác
động lẫn nhau các nhóm với thuốc trừ sâu . Trên cơ sở nghiên cứu các tác giả trên
đi đến kết luận: bảo tồn côn trùng bắt mồi bằng cách sử dụng chọn lọc các loại


15
thuốc trừ sâu như Fenazaquin và Sulfur đã làm tăng số lượng một số loài bắt mồi
và lựa chọn các giống ngô phù hợp là cơ sở để đạt được những thành công trong
chương trình IPM đối với sâu hại trên ngô (Muraleedharan, 1991)[47].
Mureleedharan (1992) [47] đã nghiên cứu tính ăn mồi của loài Chrysilla
versicolor (Phintella versicolor) đối với rầy xanh Empoasca flavescens Fabr. trong
phòng thí nghiệm. Kết quả là một ngày đêm, một nhện trưởng thành ăn 17,6 rầy
trưởng thành và 80,5 rầy non, một con non có thể ăn tối đa 32,6 rầy trưởng thành
và 62,5 rầy non.
Susan (1999)[51] đã xác định loài ruồi bắt mồi trên sâu đục thân ngô
Ostrinia nubilalis Hubner là Lydella thompsoni. Trong số đó có 6 loài bắt mồi đã
tồn tại được ở Mỹ. Tuy nhiên chỉ có 3 loài Eriborus terebran, Macrocentrus
grandii, Lydella thompsoni là có khả năng phân bố rộng và có hiệu quả trong
phòng trừ sinh học. Loài ruồi bắt mồi Lydella thompsoni đã có mặt ở rất nhiều
vùng ở nước Mỹ mà những vùng đó không được nhân thả. Nhiều năm sau đó loài
ruồi này đã trở thành một loài ruồi bắt mồi quan trọng nhất trừ sâu đục thân ngô ở
nhiều vùng ở nước Mỹ, tỷ lệ sâu đục thân ngô bắt mồi lên tới 75%.
Nhưng đến năm 1960 số lượng loài ruồi bắt mồi giảm một cách đột ngột,
nhiều vùng thuộc phía Nam Carolina, nhiều nơi không còn thấy sự xuất hiện của
loài ruồi này. Cho đến nay sự xuất hiện của loài ruồi này được ghi nhận từ phía tây
Connecticut đến trung tâm Ohio và phía nam Carolina. Trên cơ thể của ruồi có rất

Thành phần loài côn trùng bắt mồi của các loài sâu hại trên ngô đã được
nhiều tác giả nghiên cứu, cụ thể là 41 loài côn trùng bắt mồi sâu hại ngô đã được
ghi nhận, trong đó có nhiều loài có khả năng sử dụng cho hiệu quả phòng trừ cao
như: bọ xít bắt mồi Oriorus sp. và bọ mắt vàng Chrysoperla sp. Lane Greer (2000)
[46] đã ghi nhận 7 loài bắt mồi quan trọng trên ngô gồm Chrysoperla carnea, C.
rufilabris, Chrysopa spp., ruồi ăn rệp Aphidoletes aphidimyza và bọ rùa bắt mồi
Hippodamia convergens. Các loài thiên địch này là những tác nhân quan trọng và
hiệu quả trong phòng trừ rệp hại. Nhân nuôi và

thả các loài

ruồi ăn rệp

Aphidoletes aphidimyza và bọ rùa bắt mồi Hippodamia convergens tốt nhất là vào


17
thời gian nhiệt độ lạnh. Gillian Ferguson (2005) [40] đã mô tả và nghiên cứu và
phát triển một số loài như ruối ăn rệp Aphidoletes aphidimyza, bọ rùa Hippodamia
convergens, Harmonia axyridis và bọ mắt vàng Chrysoperla sp. để phòng trừ rệp
ngô. Các biện pháp phòng trừ sinh học được ưu tiên và sử dụng với việc thả một số
loài ruồi ăn rệp Aphidoletes aphidimyza và bọ rùa Hippodamia convergens,
Harmonia axyridis. Trong công trình phòng chống bọ trĩ hại cây ngô thì có thể sử
dụng loài bọ xít nhỏ thuộc họ Anthocoridae (Jamie 2008) [43]
1.1.2. Các nghiên cứu về sinh học, sinh thái của bọ rùa và bọ rùa hai
mảng đỏ Lemnia biplagiata
Đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của bọ rùa Propylea japonica được
nghiên cứu ở Trung Quốc trong các năm 1978-1981, bọ rùa P. japonica có thể
hoàn thành 10 thế hệ trong 1 năm. Song ngoài tự nhiên nó chỉ có 6 thế hệ trong 1
năm. Tuổi thọ của bọ rùa trưởng thành kéo dài 50 ngày. Điều kiện thích hợp cho bọ

cây ăn quả. Khả năng sinh sản của trưởng thành cái khi ăn rệp Aphid craccivora là
1064±96,6 quả/con cái (690–1229) , khi ăn rệp đào Myzus persicae là 1651,0±840
quả/con cái (1047-1852). ở nhiệt độ 20°C thời gian phát dục của pha trứng là 5
ngày, pha ấu trùng là 16 ngày và pha nhộng là 7 ngày. ỏ 25°C thời gian phát dục
của các pha tương ứng là 3 ngày,10 ngày và 4 ngày. ỏ 30°C thời gian phát dục của
các pha tương ứng là 2 ngày, 8 ngày và 2,5 ngày. Trong cả giai đoạn phát dục
trưởng thành cái tiêu thụ vật mồi rệp tuổi 3- 4 Aphid craccivora ở 20oC,25oC, 30oC
là 258,2±11,3; 226±8,7 và 224,8±8,6 rệp. Trưởng thành đực tiêu thụ tương ứng là
203,0±14,0; 188,3±6,7 và 187,3±12,5 rệp (Semyanov, 1999) [49].
Behura (1983) [36] trong nghiên cứu về ảnh hưởng của nhiệt độ đã nghiên
cứu về khả năng ăn mồi của Lemnia biplagiata cho biết, cả pha ấu trùng L.
biplagiata ăn hết 430 ± 42 rệp Aphis gossypii, trưởng thành ăn hết 1548 ± 118 rệp
trong vòng 14–38 ngày sau vũ hóa.


19
1.2. Những nghiên cứu về côn trùng bắt mồi trên ngô ở Việt Nam
1.2.1.Các nghiên cứu về thành phần loài
Côn trùng bắt mồi trên ngô có vai trò khá quan trọng trong hạn chế sự gia
tăng của các loài sâu hại, chúng đã được khá nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu (Nguyễn Đức Khiêm, 2001) [17]. Theo Phạm Văn Lầm (1996) [20] ghi nhận
59 loài côn trùng bắt mồi của sâu hại ngô. Chúng thuộc 36 họ côn trùng, nhện, nấm
và virus. Các loài thiên địch thu thập được nhiều nhất ở bộ cánh màng (26 loài
chiếm 30,6% tổng số loài thu thập được) và bộ cánh cứng (19 loài chiếm 26,3%),
bộ cánh nửa có 9 loài (chiếm 12,5%). Các bộ khác như bộ cánh mạch, bộ cánh
thẳng, bộ hai cánh phát hiện từ 1 – 4 loài. Trong các loài trên đã xác định tên được
40 loài (chiếm 57,1%).
Côn trùng bắt mồi của ngô xuất hiện khá phổ biến trên đồng ruộng. Tại Gia
Lâm – Hà Nội, Nguyễn Thị Lương (2003) [24] đã cho biết trên vụ ngô Xuân năm
2003, xuất hiện 15 loài thuộc 3 bộ, 8 họ. Trong đó bộ cánh cứng (chủ yếu là họ bọ

Tại Nam Đàn-Nghệ An trên các giống ngô ở 2 vụ ngô đông và ngô xuân có
26 loài thiên địch sâu hại ngô ( Phan Xuân Hảo, 2007) [14].
Họ Bọ rùa (Coccinellidae), bộ (Coleoptera), lớp (Insecta) có một lịch sử
phát triển khá lâu dài. Theo ý kiến của Iablokoff - Khazorian thì họ Coccinellidae
hiển nhiên được hình thành từ khu vực nào đấy ở vùng nhiệt đới mà hiện nay ở đó
họ Coccinellidae cũng vô cùng phong phú và đa dạng (Bộ Khoa học và công nghệ Viện khoa học và công nghệ Việt Nam, 2007; Hoàng Đức Nhuận ,1982) [2], [27].
Triển vọng sử dụng bọ rùa trong đấu tranh sinh học bảo vệ cây trồng ở Việt
Nam là rất lớn, do trên một phạm vi đất đai không lớn nhưng Việt Nam có rất
nhiều loài bọ rùa có ích đồng thời phát triển. Hệ bọ rùa có ích ở Việt Nam rất
phong phú, tuy nhiên từ trước đến nay chưa được điều tra một cách có hệ thống.
Năm 1976, Viện bảo vệ thực vật đã công bố danh sách bọ rùa gồm 63 loài và phân
loài, trong đó có 48 loài có ích. Cho tới nay số loài bọ rùa có ích trong khu hệ bọ


21
rùa Việt Nam lên tới 165 loài, thuộc 5 phân họ, 60 giống, trong đó có 159 loài ăn
rệp, và những sinh vật nhỏ khác hại thực vật (Phạm Văn Lầm, 1995) [19].
Các loài côn trùng bắt mồi trên ngô với vật mồi là sâu hại ngô có vai trò khá
quan trọng trong hạn chế sự gia tăng của các loài sâu hại ngô, chúng đã được khá
nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu (Bùi Sỹ Doanh và Lê Ngọc Quỳnh, 1993)
[10].
Phạm Văn Lầm (2005) [22] ghi nhận 72 loài thiên địch của sâu hại ngô
(trong đó có 28 loài bắt mồi ). Chúng thuộc 36 họ côn trùng, nhện, nấm và virus.
Các loài thiên địch thu thập được nhiều nhất ở bộ cánh màng (26 loài chiếm 30,6%
tổng số loài thu thập được) và bộ cánh cứng (19 loài chiếm 26,3%). Bộ nhện lớn đã
phát hiện được 13 loài (chiếm 18,1%), bộ cánh nửa có 9 loài (chiếm 12,5%). Các
bộ khác như bộ cánh mạch, bộ cánh thẳng, bộ hai cánh, bộ nấm, virus mỗi bộ phát
hiện từ 1 – 4 loài. Trong các loài trên đã xác định tên được của 63 loài gồm 40 loài
bắt mồi ăn thịt (chiếm 57,1%), 17 loài ký sinh trên sâu hại ngô (chiếm 21,45%), 4
loài ký sinh bậc 2 (chiếm 5,7%), 2 loài ký sinh trên côn trùng ăn rệp ngô (chiếm

tuổi, sức ăn rệp cải của bọ rùa tăng dần từ tuổi 1 đến trưởng thành. Sức ăn của
sâu non tuổi 1 cao nhất đạt 9,8 ± 0,20 con/ngày ở điều kiện nhiệt độ trung bình
là 21,70C, ẩm độ trung bình 75,6 %, còn trưởng thành đạt 81,1 ± 0,99 con/ngày
ở điều kiện nhiệt độ trung bình ở 20,1 0C, ẩm độ trung bình 93,1%.
Bọ rùa hai mảng đỏ Lemnia biplagiata có vòng đời trung bình từ 17,7 ngày
(nuôi bằng rệp muội Aphis craccivora) đến 24,0 ngày (nuôi bằng rệp mía
Ceratovacuna lanigera). Một trưởng thành cái đẻ được 22,3 trứng khi ăn rệp muội
Aphis craccivora và 183,5 trứng khi ăn rệp mía Ceratovacuna lanigera (Quách Thị
Ngọ và Phạm Văn Lầm,1999) [26].
Trần Đình Chiến (2002) [6], Phạm Văn Lầm (1998) [21] cho biết vòng đời
của loài bọ rùa bọ rùa 6 vằn Menochilus sexmaculatus trung bình 25,31 ± 2,61
ngày ở 25,9 – 29,00C và ẩm độ 81,7 – 90,3%. Trưởng thành cái đẻ trung bình 219,4


23
quả trứng, ăn 87,6 con rệp đậu tương trên ngày. Chúng có khả năng ăn nhiều loại
rệp khác nhau (rệp đậu tương, rệp ngô, rệp cải) nhưng thích ăn nhất là rệp đậu
tương. Sức ăn của ấu trùng tăng dần từ tuổi 1 đến tuổi 4, tuổi 4 có khả năng ăn cao
nhất, trung bình một ngày đêm ăn hết 59,1 con rệp.
Bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata có vòng đời trung bình từ 14,8
ngày khi nuôi ở nhiệt độ 30,7°C đến 17,7 ngày ở nhiệt 27,1°C. Một cá thể trưởng
thành cái đẻ trung bình 21,9-28,6 trứng. Tuổi thọ của trưởng thành trung bình là
22,8-24,2 ngày. Một cá thể bọ rùa 18 chấm trong cả đời nó có thể tiêu diệt khoảng
972,5 trứng nhện đỏ cam (Phạm Quỳnh Mai, 2009) [25].
Vòng đời của bọ rùa 17 chấm Harmonia sedecimnotata dài hơn vòng đời
của bọ rùa đen nhỏ Stethorus sp. và trung bình là 19,1-23,2 ngày khi ở nhiệt độ
thay đổi từ 30,3°C xuống 26,8°C. Một cá thể trưởng thành cái đẻ trung bình 414,7
trứng. Tuổi thọ của trưởng thành trung bình là 33,0 ngày. Một trưởng thành bọ rùa
17 chấm Harmonia sedecimnotata trong vòng 24 giờ tiêu diệt được khoảng 119,6
– 134,0 rệp muội đen Toxoptera aurantii, hoặc 72,4-85,8 ấu trùng rầy chổng cánh.

Vòng đời của bọ rùa Nhật Bản kéo dài 14-15 ngày, trong đó giai đoạn trứng
phát triển trung bình 2,08±0,04 ngày, giai đoạn ấu trùng phát triển trong khoảng 56 ngày, giai đoạn nhộng 2,62±0,27 ngày, giai đoạn trước đẻ trứng 4,5±0,23 ngày.
Khả năng ăn mồi của ấu trùng bọ rùa Nhật Bản tương đối cao, mỗi ấu trùng có thể
ăn hết 208-293 ngày, trung bình 257±7 rệp đậu màu đen. Mỗi trưởng thành bọ rùa
Nhật Bản trong 3 ngày đầu tiên ăn hết trung bình 196±10 rệp. Trong 15 ngày đẻ
trứng đầu tiên, mỗi bọ rùa cái có thể đẻ từ 326-498 trứng, trung bình 430 trứng.
Khả năng ăn rệp cao ở cả giai đoạn ấu trùng và cả trưởng thành, trung bình cả pha
ấu trùng mỗi cá thể ăn hết 257 rệp, trong 3 ngày đầu sau vũ hóa mỗi trưởng thành
bọ rùa Nhật Bản ăn hết 196 rệp (Vũ Thị Chỉ, 2007) [4].


25
Gần đây, các nghiên cứu đều tập trung vào việc tìm hiểu vai trò của côn
trùng bắt mồi và hướng lợi dụng chúng trong việc kìm hãm sự phát triển của sâu
hại ngô. Đồng thời các nghiên cứu cũng tập trung nghiên cứu thành phần loài, đặc
điểm sinh học, sinh thái của các loài sâu hại, tạo cơ sở khoa học trong biện pháp
đấu tranh sinh học nhằm giảm sử dụng thuốc hoá học, hạn chế ô nhiễm môi trường
(Trương Đích, 2000; Bùi Sỹ Doanh và Lê Ngọc Quỳnh, 1993; Hà Quang Hùng,
2005) [9], [10], [16]
Theo Quách Thị Ngọ và Phạm Văn Lầm (1999) [26], Nguyễn Thị Kim
Oanh (1993) [30] loài bọ rùa hai mảng đỏ Lemnia biplagiata khi nuôi bằng rệp
muội Aphis craccivoracó vòng đời dài hơn khi nuôi bằng rệp mía Ceratovacuna
lanigera. Trưởng thành cái đẻ được ít trứng khi ăn rệp muội Aphis craccivora và
nhiều trứng khi ăn rệp mía Ceratovacuna lanigera
Loài bọ rùa đỏ Nhật bản khi nuôi bằng rệp cải có vòng đời trung bình là
38,8 ± 0,9 ngày ở điều kiện nhiệt độ trung bình là 18,9 0C, ẩm độ trung bình là
81,6%. Sức ăn rệp cải của bọ rùa tăng dần từ tuổi 1 đến trưởng thành. Sức ăn
của sâu non tuổi 1 cao nhất đạt 10,8 ± 0,20 con/ngày ở điều kiện nhiệt độ trung
bình là 21,7 0C, ẩm độ trung bình 75,6 %, còn trưởng thành đạt 91,1 ± 0,99
con/ngày ở điều kiện nhiệt độ trung bình ở 20,1 0C, ẩm độ trung bình 93,1% (Hồ


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status