Phân tích những điểm mới của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong quy định trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùng so với các văn bản trước đây - Pdf 34

Đặt vấn đề
Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 ra đời không chỉ nâng cao địa vị pháp
lý của người tiêu dùng trong quan hệ mua bán hàng hóa mà còn cụ thể hóa trách nhiệm
của thương nhân khi tham gia vào quan hệ này. Một trong những sự khác biệt giữa luật
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 với các văn bản pháp luật trước đây là quy định
rõ ràng và chi tiết hơn về trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùng. Dưới
đây là bài viết của em về vấn đề :” Phân tích những điểm mới của Luật bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng trong quy định trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu
dùng so với các văn bản trước đây”.

Giải quyết vấn đề
I/ Tổng quan về bảo vệ NTD và pháp luật bảo vệ NTD
1. Khái niệm NTD
Trong những năm gần đây, khái niệm NTD được sử dụng rất nhiều trong đời
sống sinh hoạt cộng đồng, cũng như trong khoa học pháp lý ở nước ta, bởi lẽ nó là hạt
nhân trung tâm trong sự phát triển về mọi mặt của quốc gia, đặc biệt là sự phát triển
của nền kinh tế. Hiểu được NTD là ai, họ có vai trò như thế nào đối với xã hội… là
một việc làm hết sức quan trọng.
Khái niệm NTD được đưa ra ở khoản 1 điều 3 Luật bảo vệ quyền lợi NTD:”
NTD là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của
cá nhân, gia đình, tổ chức”.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về NTD, với pháp luật của các nước khác nhau
thì định nghĩa về NTD ít nhiều cũng khác nhau xong nhìn chung hầu hết pháp luật các
nước trên thế giới đều thống nhất đặc điểm quan trọng nhất trong khái niệm về NTD
đó là mục đích mua bán, sử dụng hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm là phục vụ nhu cầu tiêu
dùng cá nhân, gia đình, không nhằm mục đích kinh doanh thu lợi nhuận.
=> Đặc điểm cơ bản của NTD là:
Thứ nhất, NTD có thể là: người mua hàng hóa, dịch vụ; hoặc người sử dụng hàng
hóa, dịch vụ; hoặc người mua và sử dụng hàng hóa, dịch vụ.
1


quan hệ bảo vệ NTD.
2


Hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia bao gồm nhiều lĩnh vực pháp luật, mỗi lĩnh
vực pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội nhất định, tuy nhiên pháp luật bảo
vệ NTD lại có đối tượng điều chỉnh rất rộng lớn, bao trùm hầu hết các quan hệ xã hội,
giao thoa đối tượng điều chỉnh với hầu hết các lĩnh vực pháp luật từ luật công đến luật
tư.
Pháp luật bảo vệ QLNTD là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực bảo vệ NTD.
II/ Những điểm mới của pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD
1. Khái niệm thương nhân
Theo quy định tại khoản 1 điều 6 Luật thương mại:
Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt
động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh.
Khái niệm về thương nhân hẹp hơn khái niệm cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh
doanh. Vì thương nhân là những chủ thể tiến hành kinh doanh nhưng có đăng kí kinh
doanh, tuy nhiên vẫn có những chủ thể tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh
thường xuyên nhưng không có đăng kí kinh doanh ( quy định tại Nghị định số
39/2007/NĐ-CP) như người bán hàng rong, quà vặt, có thu nhập thấp…
2. Về trách nhiệm của thương nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với NTD.
Vấn đề trách nhiệm của thương nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ được quy định
tại chương 3 của pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD và được giải thích tại chương 2 của
nghị định 55/2008/ NĐ-CP. Theo đó, thương nhân kinh doanh có các nghĩa vụ cơ bản
sau:
- Trách nhiệm cung cấp thông tin kịp thời, chính xác.
- Trách nhiệm bảo đảm tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng
- Trách nhiệm bảo hành
- Trách nhiệm đảm bảo an toàn cho NTD

Vấn đề khiếu nại, bồi thường thiệt hại cho NTD, nhiều doanh nghiệp chưa chú trọng,
lắng nghe, tiếp thu ý kiến và chậm trễ giải quyết khiếu nại của NTD.
Trên thị trường, khi giao dịch với thương nhân, NTD thường gặp bất lợi cơ bản về
vấn đề thông tin, khả năng đàm phán, khả năng chịu rủi ro… Tuy vậy, những quy định
trong các văn bản pháp luật trước đây còn thiếu, để khắc phục tình trạng này, một yêu
cầu đặt ra khi xây luật bảo vệ NTD là cần có những quy định bổ sung về trách nhiệm
vuẩ thương nhân đối với việc bảo vệ quyền lợi NTD.
4


Kế thừa những quy định của pháp lệnh 1999, đồng thời căn cứ trên tính hình kinh
tế về bảo vệ quyền lợi NTD, luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010 đưa ra những quy định
mới và chặt chẽ về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh với NTD. Cụ thể trách
nhiệm đó là:
2.1 Trách nhiệm của thương nhân trong việc thực hiên hợp đồng theo mẫu và
điều kiện giao dịch chung
Trước khi luật bảo vệ quyền lợi NTD ra đời BLDS 2005 đã có một số quy định liên
quan về vấn đề này, ví dụ điều 407. Tuy nhiên, các quy định của BLDS là chưa đầy đủ
và mang tích chất chung chung, thiếu những quy định cụ thể, trực tiếp bảo vệ quyền
lợi NTD khi giao kết, thực hiện các điều kiện giao dịch chung.
Theo quy định tại khoản 5 điều 3 Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010 và khoản 6 điều
3 quy định: thì “ hợp đồng theo mẫu” được coi như như một “ điều kiện giao dịch
chung”.
Có thể nói những quy định về trách nhiệm của thương nhân trong việc thực hiện
hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung trong luật bảo vệ quyền lợi NTD phù
hợp với thực tiễn cuộc sống. Điều đó được thực hiện như sau:
Thứ nhất, Luật bảo vệ NTD 2010 không chỉ điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hợp
đồng theo mẫu mà còn điều chỉnh các loại điều kiện giao dịch chung khác như quy
định nguyên tắc bán hàng, điều kiện bán hàng… Trước đây chưa từng có một quy định
nào để điều chỉnh những loại điều kiện giao dịch chung này. Đây chính là một trong

cố ý nhằm đánh lạc hướng NTD. Từ thực tế đó, luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010 đưua
ra điều luật loại trừ hiệu lực của nhuwngx điều khoản mà gây bất lợi cho NTD kể cả
khi điều khoản đó có được NTD đồng ý, chấp thuận.
- Về vấn đề thực hiện hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung.
Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010 đã quy định khá đầy đủ việc thực hiện hợp đồng theo
mẫu, tổ chức, cá nhân kinh doanh phải giành thời gian để NTD nghiên cứu hợp đồng;
thương nhân phải lưu giữ hợp đồng cho đến khi hợp đồng hết hiệu lực. Nếu hợp đồng
bị mất hoặc NTD giữ là bí mật thì thương nhân cấp cho NTD bản sao của hợp đồng;
thương nhân sử dụng điều kiện giao dịch chung có trách nhiệm thông báo công khai
điều kiện giao dịch chung trước khi thực hiện giao dịch với NTD; điều kiện giao dịch
chung phải xác định rõ thời điểm áp dụng và được niêm yết tại địa điểm giao dịch mà
NTD có thể nhìn thấy được.
6


2.2Trách nhiệm của thương nhân trong việc bảo hành hàng hóa, linh kiện, phụ
kiện.
Trước khi Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010 được ban hành, chế định bảo hành đã
được ghi nhận trong pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD 1999 và nghị định 55/2008/NĐCP là một trách nhiệm của thương nhân. Ngoài ra bộ luật dân sự 2005 đã dành 4 điều
(từ điều 445-điều 448) để quy định về nghĩa vụ bảo hành. Tuy nhiên những quy định
đó không đáp ứng được yêu cầu thực tiễn công tác bảo vệ quyền lợi NTD. Bộ luật dân
sự 2005 chủ yếu điều chỉnh các mối quan hệ dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tự do thỏa
thuận. Chính vì vậy, các quy định (trong đó có quy định về chế độ bảo hành) cũng
được xây dựng dựa trên những nguyên tắc đó mà chưa tính đến việc bảo vệ quyền lợi
NTD là một bên yếu thế. Những quy định về trách nhiệm bảo hành hàng hóa của
thương nhân trong Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD 1999 còn chung chung, không có
những quy định ràng buộc trách nhiệm thương nhân để họ thực hiện bảo hành nhanh
chóng, đảm bảo quyền lợi NTD. Thực tiễn cho thấy, không phải lúc nào NTD cũng
được thực hiện việc bảo hành một cách thuận tiện như đã thỏa thuận. Nhiều trường
hợp NTD phải dở khóc, dở cười khi mang hàng hóa đi bảo hành và thậm chí nhiều

bình xăng này và Honda lúc đó mới đưa ra công bố chính thức.
Trước khi luật bảo vệ quyền lợi NTD ban hành hầu như không có quy định pháp
luật rõ ràng nào để buộc tội thương nhân phải thu hồi hàng hóa có khuyết tật đó như
trường hợp kể trên. Luật bảo vệ quyền lợi NTD quy định về trách nhiệm thu hồi hàng
hóa có khuyết (điều 22) đã giải quyết được nhiều vấn đề phát sinh trên thực tế không
chỉ bảo vệ được quyền lợi NTD mà còn tạo hành lang pháp lý thuận lợi để thương
nhân làm tròn trách nhiệm của mình.
2.4 Trách nhiệm của thương nhân trong việc bồi thường thiệt hại do hàng hóa có
khuyết tật gây ra.
Bên cạnh bộ luật dân sự 2005, Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007, nhiều văn
bản quy phạm pháp luật khác cũng đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại như
luật dược 2005, luật điện lực 2004… Tuy nhiên các quy định này cũng dựa trên yếu tố
lỗi để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra. Việc
chứng minh lỗi của thương nhân là một trong những cản trở lớn nhất để NTD có thể
thực hiện việc khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại. NTD không đủ trình độ, kiến thức để
phát hiện ra những khuyết tật trong sản phẩm. Ví dụ: NTD không thể phát hiện chất
melamine trong sữa, chất 3-MCPD trong nước tương… Mặt khác, như đã đề cập ở
8


trên, NTD có quyền đòi hỏi về việc sản phẩm phải đảm bảo an toàn cho mình trong
quá trình sử dụng. Trong trường hợp một hàng hóa không đảm bảo an toàn cho NTD
thì đương nhiên phát sinh trách nhiệm của thương nhân kinh doanh sản phẩm đó.
Luật bảo vệ quyền lợi NTD quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa
có khuyết tật gây ra cho NTD:” Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa có trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong trường hợp hàng hóa có khuyết tật do mình cung cấp gây
thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của NTD, kể cả khi tổ chức, cá nhân đó
không biết hoặc không có lỗi trong việc phát sinh khuyết tật”.
Nhằm bảo vệ quyền lợi cho NTD một cách tuyệt đối, các nhà làm luật đã quy định
việc bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD, ngay cả khi tổ

hình kinh doanh. Đối với vấn đề này, một câu hỏi đặt ra là:” việc mua hàng của những
người bán rong, nếu hàng hóa kém chất lượng thì NTD sẽ được bảo vệ ra sao?” Trên
thực tế, những mặt hàng bán rong thường kém an toàn về vệ sụng, chất lượng, dễ gây
rất nguy hại về sức khỏe, tính mạng của NTD. Ví dụ: bán kem di động, trẻ con ăn xong
nếu bị ngộ độc cũng phải vài tiếng sau… Dù ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe trẻ
em, đặc biệt là trẻ em nông thôn, trẻ em mua quà rong ngoài cổng trường… nhưng luật
lại chưa đề cập rõ tới đối tượng bán hàng rong này. Đặc điểm kinh tế thị trường của
Việt namlà người bán hàng rong rất nhiều và nhiều người thích mua hàng hóa của
người bán hàng rong vì không phải ai cũng có điều kiện vào các cửa hàng lớn, các siêu
thụ mua hàng. Bởi vậy, pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD cần xây dựng cho phù hợp
với điều kiện kinh tế đất nước chứ không nên dập khuôn theo các nước tiên tiến khác
trên thế giới.
2. Cần bổ sung các quy định một cách cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của nhà nước
trọng việc bảo vệ quyền lợi NTD và tăng cường ngân sách nhà nước đầu tư cho
công tác bảo vệ NTD.
Trách nhiệm quan trọng nhất về bảo quyền lợi NTD là nhà nước. Cần phải có các
quy định cụ thể, rõ ràng về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
việc bảo vệ quyền lợi của NTD cũng như các thiết chế đảm bảo để các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền có thể thực thi tốt nhất nhiệm vụ , quyền hạn của mình trong việc
bảo vệ quyền lợi NTD, như: về lực lượng, về trang thiết bị…
Hiện tại ngân sách dành cho động của lực lượng quản lý thị trường rất hạn chế. Do
vậy, lực lượng quản lý thị trường không những yếu về lực lượng mà còn thiếu cả về
phương tiện đi lại, phương tiện liên lạc và các trang thiết bị hoạt động tối thiểu cần
10


thiết khác để có đầy đủ khả năng phản ứng nhanh và có hiệu quả đối với nạn buôn bán
hàng giả, hàng kém chất lượng không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
3. Khẩn trương củng cố kiện toàn các thiết chế thực thi pháp luật.
Trong công tác bảo vệ NTD, bên cạnh những thành tựu đạt được, khi thực hiện hoạt

lợi NTD.
Các cơ quan chức năng, đặc biệt là ủy ban nhân dân các cấp cần tăng cường công
tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD cho người dân.
Có nhiều phương tiện mà các cơ quan chức năng có thể sử dụng để tuyên truyền, giáo
dục pháp luật như báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình, các website về bảo vệ
quyền lợi NTD.
Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền về bảo vệ NTD cần chú trọng đối với cộng
đồng doanh nghiệp, để nâng cao nhận thức của doanh nghiệp của người bán hàng về
trách nhiệm của mình trước NTD.
Có nhiều cách thức mà cơ quan chức năng, các đoàn thể xã hội có thể thực hiện để
tuyên truyền, giáo dục pháp luật bảo vệ NTD như phổ biến luật trên ddài truyền hình
trung ương và địa phương, đài truyền thanh của từng xã, phường, thành lập các trang
web mà ở đó NTD có thể tìm kiếm thông tin kiên qua nđế vấn đề bảo vệ NTD, tổ chức
các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD.

Kết thúc vấn đề
Luật bảo vệ quyền lợi NTD ra đời là một dấu mốc quan trọng trong công tác bảo vệ
quyền lợi NTD. Tuy nhiên để làm tốt công tác bảo vệ quyền lợi NTD cần có sự nỗ lực
chung của các cơ quan nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các
phương tiện thông tin đại chúng và của chính NTD. Hay nói cách khác, cần phát huy
sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội thì việc thực thi Luật bảo vệ quyền lợi NTD mới
có hiệu quả và bảo vệ được quyền lợi của người tiêu dùng cũng như lợi ích chung của
toàn xã hội.

12




Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status