KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ HỌC VỚI TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI - Pdf 34

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC

QUỐC TẾ HỌC VỚI TRƯỜNG ĐẠI HỌC
NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
(Lần thứ 1)

Đơn vị chủ trì: Trung tâm Ngôn ngữ & Quốc tế học

HÀ NỘI – 10/2015
0


MỤC LỤC

1. Quốc tế học với Trường Đại học Ngoại ngữ & ĐHQGHN -------------------------- 2
2. Ngôn ngữ học ứng dụng và Quốc tế học – Đâu là cầu nối? -------------------------- 10
3. Nghiên cứu quốc tế tại Đại học Ngoại ngữ (ĐHQGHN): Định nghĩa, định vị và
định hướng---------------------------------------------------------------------------------- 20
4. Quốc tế học và nghiên cứu Quốc tế học ------------------------------------------------ 29
5. Đào tạo Quốc tế học với Đại học Ngoại ngữ ------------------------------------------- 40
6. Định hướng xây dựng chuyên ngành Quốc tế học ở Trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN
--------------------------------------------------------------------------------------------------- 64
7. Tóm lược ý kiến thảo luận tại hội thảo-------------------------------------------------- 67
8. Thống kê ý kiến từ Phiếu góp ý ---------------------------------------------------------- 69

1



chiến lược và quốc tế học (Center for Strategic and International Studies, CSIS), Viện Quốc tế
học Freeman Spogli (thuộc Stanford University) là những tổ chức nghiên cứu hàng đầu về
Quốc tế học chuyên về nghiên cứu các vấn đề quốc tế và quan hệ quốc tế. Chương trình đào
tạo của các trường đại học Hoa Kỳ tập trung vào lĩnh vực quan hệ quốc tế và các vấn đề quốc
tế có liên quan đến chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.
1
2

/>

2


- Vương quốc Anh có một số trường đại học lớn như University of Oxford có Trung
tâm Quốc tế học (the Centre for International Studies), mục tiêu chính là xúc tiến và phát triển
nghiên cứu về quan hệ quốc tế. Ngoài ra còn có Viện Nghiên cứu Phát triển (Institute of
Development Studies- IDS) ở Susex là viện nghiên cứu hàng đầu thế giới về nghiên cứu phát
triển, đào tạo và giao tiếp quốc tế. Chương trình đào tạo ở các trường đại học lớn ở Anh tập
trung vào quan hệ quốc tế và các vấn đề quốc tế và toàn cầu hóa.
- Ở Pháp có một số trường tiêu biểu như Đại học Sorbonne Nouvelle - Paris 3, Học
viện Quan hệ Quốc tế Paris chủ yếu nghiên cứu và đào tạo quan hệ quốc tế, kinh tế quốc tế,
khu vực học, đất nước học để phục vụ cho các cơ quan ngoại giao, hành chính công, luật, báo
chí, thương mại, các tổ chức quốc tế liên chính phủ và phi chính phủ
- Ở Đức có một số trường tiêu biểu như Bremen, Humbold Berlin, Freie Berlin Leipzig,
Heidelberg, Potsdam, hướng đào tạo và nghiên cứu chính là quan hệ quốc tế, khu vực học và
môi trường.
- Một số trường tiêu biểu ở Canada như Đại học Montrea, Đại học Laval, Đại học
Ottawa, Đại học York chủ yếu nghiên cứu và đào tạo quan hệ quốc tế, kinh tế quốc tế, khu vực
học, đất nước học để phục vụ cho các cơ quan ngoại giao, hành chính công, luật, báo chí,
thương mại, các tổ chức quốc tế liên chính phủ và phi chính phủ

học Ngoại ngữ Thượng Hải (Shanghai International Studies University, SISU) nghiên cứu và
đào tạo ngoại ngữ, kinh tế, khoa học chính trị, kinh tế ứng dụng, truyền thông, quản trị với mục
đích chính là phục vụ cho đối ngoại và các tổ chức quốc tế. Học viện Quan hệ Quốc tế thuộc
Đại học Bắc Kinh (School of International Studies, Peking university) nội dung nghiên cứu
vào đào tạo gồm khoa học chính trị, quan hệ quốc tế, chế độ chính trị, kinh tế chính trị quốc tế.
Mục đích chính là đưa ra các kiến nghị và cung cấp nhân lực cho lĩnh vực đối ngoại và các
công việc liên quan đến đối ngoại. Học viện Quan hệ Quốc tế thuộc Đại học Nhân Dân Trung
Quốc (School of International Studies, Renmin university of China) đào tạo nhân lực cho các
cơ quan nhà nước, các cơ quan đối ngoại, các trường đại học, viện nghiên cứu, hãng truyền
thông và các đơn vị sự nghiệp, đảm nhận các công việc như ngoại giao, nghiên cứu chính sách,
truyền thông và quản lý hành chính.
1. 2. Quốc tế học ở Việt Nam
- Khoa Quốc tế học Trường Đại học KHXH&NV – ĐHQGHN nghiên cứu, đào tạo
bốn chuyên ngành Quan hệ quốc tế, Nghiên cứu Phát triển quốc tế, Châu Mĩ học và Châu Âu
học. Mục tiêu chung là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng, có kiến thức và kĩ năng căn bản
cũng như chuyên sâu về nghiên cứu quốc tế và quan hệ quốc tế.
- Khoa Quốc tế học Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng Nghiên cứu và
giảng dạy về các vấn đề quốc tế như quan hệ quốc tế, kinh tế quốc tế, lịch sử, văn hóa, ngoại
ngữ. Đào tạo nhân lực làm việc tại tại các trường đại học, các viện khoa học, các cơ quan
ngoại giao trung ương và điạ phương, các vụ hợp tác quốc tế thuộc các bộ, ban, ngành, đoàn
4


thể, các cơ quan đại diện, các cơ sở doanh nghiệp của người Việt Nam và người nước ngoài,
các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam và ở nước ngoài.
- Khoa Quốc tế học Đại học Hà Nội các môn học chủ yếu như kinh tế quốc tế, chính
trị, luật, quan hệ quốc tế, chủ yếu đào tạo nhân lực cho các cơ quan chính phủ, các hãng thông
tấn quốc tế, các tổ chức xã hội, tổ chức cá nhân.
- Ngành Quốc tế học Đại học Sài Gòn đạo tạo nhân lực quan hệ công chúng (PR) cho
các công ty, phân tích kinh doanh và thương mại quốc tế, quản trị viên của các chương trình

ngôn ngữ văn hóa

luật

môi trường an ninh quốc phòng

2. Nội hàm của “Quốc tế học” trong Trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN
Vậy nội hàm của “Quốc tế học” trong Trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN là gì?
Chúng ta hãy xem xét dưới ba khía cạnh sau đây:
2.1. Nội hàm của khái niệm “Quốc tế học”
Từ “Quốc tế” trong “Quốc tế học” đã chỉ rõ phạm vi của đối tượng nghiên cứu, đó là
những vấn đề có tính quốc tế, nói cách khác là có mối liên hệ và ảnh hưởng đến nhiều quốc gia
trên thế giới. Vấn đề có thể xuất phát từ một quốc gia, một khu vực nhưng có mối liên hệ và
ảnh hưởng đến nhiều quốc gia, chẳng hạn như quyết định nâng lãi xuất của Cục Dự trữ Liên
5


Bang Mỹ, quyết định phá giá đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc, tranh chấp biển Đông, người
tị nạn Syria…….
2.2. Ứng dụng của “Quốc tế học”
Ứng dụng của Quốc tế học là cung cấp cơ sở lý luận để xử lý các vấn đề có tính toàn
cầu phát sinh trong quá trình tương tác giữa các quốc gia (internation), ví dụ các nước nghiên
cứu xem trong trường hợp FED nâng lãi suất thì quan hệ kinh tế giữa Mỹ và các nước trên thế
giới sẽ ra sao? Đồng Nhân Dân tệ phá giá thì quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc với các nước
khác sẽ thế nào?
2.3. Đặc thù và thế mạnh của Trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN
- Mục đích của dạy, học và nghiên cứu ngoại ngữ là để bồi dưỡng và nâng cao khả năng
giao tiếp với nước ngoài, tức là hội nhập quốc tế.
- Nhân lực tham gia dạy và học tại Trường đều có thiên hướng hội nhập quốc tế.
- Nhà trường có thế mạnh về ngoại ngữ và văn hóa

Dương (APEC), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức Di cư quốc tế
(IOM)……Hội nhập tuy luôn mang lại cơ hội phát triển, nhưng đi kèm với đó là những thách
thức không hề nhỏ, vì vậy nhu cầu về lý luận cho hội nhập là rất lớn và cấp thiết.
- Trường Đại học ngoại ngữ đã ban hành chiến lược phát triển thành trường đại học theo
định hướng nghiên cứu.
Mặc dù có những khó khăn như đội ngũ cán bộ của Trường đại đa số được đào tạo để
giảng dạy hoặc dịch thuật một số ngoại ngữ nhất định, kiến thức và phương nghiên cứu quốc tế
còn hạn chế. Bên cạnh đó, Việt Nam hiện có nhiều cá nhân và tổ chức nghiên cứu quốc tế có
kinh nghiệm, được nhiều người biết đến và đã hình thành được bản sắc riêng. Tuy vậy triển
vọng của Quốc tế học tại Trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN vẫn rất sáng sủa. Xét từ góc
độ vĩ mô, Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập quốc tế, không gian cho Quốc tế học vẫn còn rất
rộng. Nhà trường đã xây dựng chiến lược nghiên cứu cho tương lai. Trường Đại học Ngoại
ngữ - ĐHQGHN đã có thế mạnh trong nghiên cứu và giảng dạy một số nội dung của Quốc tế
học, nói một cách khác, chúng ta hãy chuyển từ “National Studies” vốn có sang “International
Studies”.
3.2. Giải pháp chủ đạo
Trong số nhiều giải pháp, chúng tôi nhận thấy xây dựng bản sắc riêng là giải pháp căn
cơ và lâu dài. Bản sắc ở đây phải là sự khác biệt cả về hình thức và chất lượng. Dựa trên thế
mạnh của Nhà trường, xem xét thực trạng nghiên cứu Quốc tế học tại Việt Nam, chúng tôi cho
rằng bản sắc riêng là sự kết hợp của 3 yếu tố:
+ Mạnh về ngoại ngữ và văn hóa.
Ngoại ngữ sẽ giúp các nhà nghiên cứu trong Trường có thể tiếp cận trực tiếp với các
văn bản gốc từ đó đảm bảo tính chính xác, cập nhật và phong phú. Vì vậy các nghiên cứu
Quốc tế học của Trường sẽ có nét riêng là tư liệu có hệ thống, phong phú, đa dạng và cập nhật.

5

/>
7


nhau, kể cả những lĩnh vực hot nhất trong Quốc tế học như quan hệ quốc tế, khu vực học…. Vì
vậy Trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN có đủ năng lực và điều kiện để xây dựng định

8


hướng nghiên cứu và đào tạo Quốc tế học mang bản sắc riêng dựa trên thế mạnh của Nhà
trường và sự hợp tác với các chuyên gia trong và ngoài nước.

Tài liệu tham khảo
[1] Mai Ngọc Chừ, Đất nước học với tư cách khu vực học, Hội nghị khoa học thường niên Trường Đại
học Ngoại ngữ - ĐHQGHN lần thứ 32, Hà nội: 2012
[2] Nguyễn Hòa, Quốc tế học – Một cách nhìn tổng quan, Hội nghị khoa học thường niên Trường Đại
học Ngoại ngữ - ĐHQGHN lần thứ 32, Hà nội: 2012
[3] Phạm Quang Minh, Quốc tế học/nghiên cứu quốc tế ở Việt Nam: Cơ hội và thách thức, Hội nghị
khoa học thường niên Trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN lần thứ 32, Hà nội: 2012
[4] Hoàng Khắc Nam, Một số vấn đề về việc mở ngành Quốc tế học ở Trường Đại học Ngoại ngữ
(ĐHQGHN), Hội nghị khoa học thường niên Trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN lần thứ 32,
Hà nội: 2012
[5] Robert Jackson and Georg Sorensen, Introduction to International Relations: Theories and
Approaches, Oxford University Press, New York: 2007
[6] Shuming Lu, International Relations, China Renmin University Press, Peking: 2010

9


NGÔN NGỮ HỌC ỨNG DỤNG VÀ QUỐC TẾ HỌC
ĐÂU LÀ CẦU NỐI?
PGS.TS. Lê Văn Canh
Trung tâm NCGDNN&ĐBCL, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội

giữa thế giới hiện đại mà chúng ta đã từng biết đến với mâu thuẫn của thế giới hậu hiện đại mà
nguyên nhân của nó là sự phụ thuộc về kinh tế giữa các quốc gia ngày càng tăng lên, những dòng
người di cư từ quốc gia này sang quốc tế khác với quy mô lớn như hiện tượng đang diễn ra ở Sy-ri,
công nghệ thông tin toàn cầu và các hệ thống truyền thông toàn cầu. Tất cả những vấn đề đó đã và
đang diễn ra trong một thời đại được gọi là thời đại toàn cầu hóa.
Xu thế toàn cầu hóa đặt ra nhiều thách thức trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người kể cả
giáo dục ngoại ngữ . Do vậy giáo dục ngoại ngữ với tư cách là một bộ phận quan trọng bậc nhất của
10


ngành ngôn ngữ học ứng dụng cần có những thay đổi căn bản về nội dung và phương pháp giáo dục
ngoại ngữ. Bài viết này trình bày quan điểm của tác giả về sự cần thiết đưa nội dung quốc tế học vào
chương trình giáo dục ngoại ngữ trong các trường đại học chuyên ngữ của Việt Nam. Với mục tiêu đó,
bài viết đưa ra câu trả lời cho câu hỏi đặt ra trong tiêu đề của bài viết: Đâu là cầu nối giữa giáo dục
ngoại ngữ và quốc tế học.

1. Sứ mệnh mới của giáo dục ngoại ngữ trong xu thể toàn cầu hóa
Nền giáo dục của bất cứ quốc gia nào cũng có ba chức năng cơ bản là (i) tạo ra nguồn
nhân lực cần thiết cho công cuộc phát triển kinh tế đất nước, (ii) bồi dưỡng và phát triển ở
người học ý thức về bản sắc dân tộc và (iii) tạo ra sự bình đẳng về cơ hội cho mọi người. Giáo
dục ngoại ngữ là một bộ phận của nền giáo dục quốc gia nên cũng không thể không phục vụ
các mục đích giáo dục chung trên đây. Vì vậy, thuật ngữ “giáo dục ngoại ngữ” ra đời thay vì
thuật ngữ “dạy ngoại ngữ” truyền thống. Sự khác nhau trong nội hàm của hai thuật ngữ trên là
‘giáo dục ngoại ngữ’ có mục đích về xã hội và chính trị. Một ví dụ rõ nét nhất về mục đích xã
hội và chính trị của giáo dục ngoại ngữ là việc chuyển đổi mục tiêu giáo dục ngoại ngữ của
Hoa Kỳ sau sự kiện khủng bố ngày 11 tháng 9. Sau sự kiện đáng lên án đó của bọn khủng bố
tấn công vào những người dân thường trên đất Mỹ, cơ quan truyền thông Hoa Kỳ đã đăng tải
những tranh luận sôi nổi về những giải pháp làm thế nào để việc dạy và học ngoại ngữ góp
phần vào việc tăng cường an ninh cho nước Mỹ và cho toàn thế giới. Với mục tiêu đó, Hoa Kỳ
xác định mục đích của giáo dục ngoại ngữ là giáo dục những công dân song ngữ có khả năng

Cùng với những thay đổi trong giáo dục ngoại ngữ theo đường hướng dạy ngoại ngữ
theo nội dung các môn học khác (Content-based language instruction) hay lồng ghép nội dung
các môn học khác vào chương trình học ngoại ngữ (Content and language integrated learning –
CLIL), việc sử dụng các nội dung quốc tế học như quan hệ quốc tế, xã hội học, hay các ngành
học xã hội (social studies) làm nội dung của các chương trình giáo dục ngoại ngữ đang trở
thành một trào lưu.
Quốc tế học là một lĩnh vực liên ngành (interdisciplinary) và xuyên ngành
(transdiscipplinary) bao hàm nhiều chuyên ngành khác nhau. Khái niệm ‘xuyên ngành’ được
Halliday định nghĩa như sau:
Tôi nói ‘xuyên ngành’ chứ không phải ‘liên’ hay ‘đa ngành’ với lý do là tôi thấy hình
như những thuật ngữ sau hàm ý người ta vẫn bám vào ngành coi đó là tâm điểm của
hoạt động trí tuệ mặc dù có việc tạo ra những cây cầu nối giữa các ngành với nhau hay
tập hợp các ngành lại thành một bộ sưu tập; ngược lại đường hướng thay thế thực sự là
loại bỏ những thuật ngữ đó để tạo ra những hình thức mới của hoạt động mang tính luận
đề hơn là mang tính chất ngành về mặt định hướng (Halliday, 2001, p. 176).
Mặc dù quốc tế học và giáo dục ngoại ngữ đều vừa là nội dung giáo dục vừa là một
ngành khoa học có mục tiêu, lý thuyết và phương pháp nghiên cứu riêng, nhưng theo quan
điểm của Halliday trên đây thì hai ngành học có thể lồng ghép với nhau theo đường hướng
xuyên ngành. Nếu chương trình giáo dục ngoại ngữ muốn chuẩn bị cho người học trở thành
những công dân toàn cầu của thế kỷ 21 thì việc lồng ghép nội dung quốc tế học vào chương
trình giáo dục ngoại ngữ không những hoàn toàn khả thi mà còn là điều tất yếu. Dưới đây là
các giải pháp để thực hiện mục tiêu đó.

13


Thứ nhất, quốc tế học được coi là nội dung trong chương trình giáo dục ngoại ngữ và
được tổ chức thành các môn học hay khối kiến thức riêng được dạy bằng ngoại ngữ. Để thực
hiện mục tiêu này, chương trình ngoại ngữ cần lấy các nội dung liên quan đến quốc tế học làm
nội dung để giảng dạy ngoại ngữ qua đó vừa phát triển năng lực giao tiếp bằng ngoại ngữ vừa

Trong mô hình trên, kiến thức văn hóa và kỹ năng giao tiếp liên văn hóa (intercultural
communication) là mục tiêu cao nhất còn kỹ năng giao tiếp tức là các kỹ năng ngoại ngữ giữ vị
trí trung tâm. Với khả năng sử dụng ngoại ngữ thành thạo và những hiểu biết về các vấn đề đó,
người học không những có thêm động lực học tập mà họ còn được trang bị những kiến thức,
kỹ năng và thái độ cần thiết để hòa nhập vào xu thế toàn cầu hóa và trở thành những công dân
toàn cầu. Những nội dung quốc tế học cũng giúp người học hình thành và phát triển được năng
lực tư duy nhất là tư duy phản biện (critical thinking) -một trong những phẩm chất trí tuệ cần
thiết của thế kỷ 21.
Hai là, với chương trình giáo dục ngoại ngữ hiện nay của các trường đại học Việt Nam
chỉ cần có một cải tiến nhỏ để lồng ghép các nội dung về Khu vực học. Khái niệm khu vực học
(area studies) được các học giả (Szanton, 2004) sử dụng để chỉ (i) việc nghiên cứu miêu tả một
quốc gia dân tộc hay một khu vực cụ thể; (ii) nghiên cứu mang tính liên ngành về một khu vực
cụ thể ví dụ như về khu vực châu Phi, Mỹ La tinh, châu Âu, hay châu Á-Thái Bình Dương.
Như vậy, đưa nội dung khu vực học vào chương trình thay vì nội dung của môn Đất nước học
hiện nay cũng cần quan tâm đến nội dung Việt Nam học, coi nội dung Việt Nam học là một bộ
phận của khối kiến thức khu vực học.
Ba là, các trường đại học chuyên ngữ cần có chính sách coi trọng việc nghiên cứu quốc
tế học để vừa đóng góp cho ngành khoa học xã hội và nhân văn vừa lấy kết quả nghiên cứu
làm nội dung giáo dục ngoại ngữ. Dưới đây tôi xin trình bày quan điểm cá nhân về phương
pháp nghiên cứu quốc tế học và/ hoặc khu vực học mà các trường đại học chuyên ngữ có thể
sử dụng.

4. Phương pháp nghiên cứu quốc tế học.
Quốc tế học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội mang tính xuyên ngành do vậy để nghiên
cứu quốc tế học chúng ta đương nhiên phải sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học
xã hội. Mặc dù phương pháp nghiên cứu của khoa học xã hội được chia thành các phương
pháp nghiên cứu định lượng và các phương pháp nghiên cứu định tính, xu hướng chung hiện
nay là sử dụng các phương pháp nghiên cứu định tính hoặc phương pháp nghiên cứu hỗn hợp
kết hợp định tính với định lượng. Căn cứ vào điều kiện nghiên cứu và mục đích nghiên cứu
quốc tế học trong mối quan hệ với giáo dục ngoại ngữ ở trường đại học, tôi xin đề xuất sử

nắm được bản chất của vấn đề để đưa ra được những so sánh hay đối sánh giữa lời nói
và việc làm, giữa chính sách và việc thực thi chính sách của đối tượng nghiên cứu trong
một bối cảnh cụ thể hay trong các bối cảnh khác nhau, từ đó đưa ra những kết luận về
bản chất thực tế đang diễn ra của vấn đề được nghiên cứu.
5. Phương pháp phân tích yếu tố (factor analysis). Bất luận phương pháp nghiên cứu được
sử dụng là phương pháp lịch sử hay phương pháp nghiên cứu riêng lẻ từng quốc gia đều
16


cần phải xem xét các yếu tố cấu thành chính sách, thái độ của từng quốc gia đối với các
vấn đề nghiên cứu. Ví dụ các yếu tố văn hóa, kinh tế, chính trị, tôn giáo, giáo dục. Tuy
nhiên cần lưu ý là phương pháp phân tích yếu tố không phân tích tất cả các yếu tố cấu
thành mà chỉ phân tích một cách tổng hợp những yếu tố có mối liên hệ với nhau để đưa
ra được những kết luận mang tính tổng thể về chính sách, thái độ và nhận thức của từng
quốc gia về các vấn đề được nghiên cứu. Vì vậy phương pháp phân tích yếu tố cũng có
nhiều nét tương đồng với phương pháp phân tích hệ thống và phương pháp phân tích
kết cấu chức năng.
Các phương pháp nghiên cứu còn nhiều nhưng căn cứ vào tình hình thực tế hiện nay
của nhà trường cũng như mục đích nghiên cứu, chúng tôi xin gợi ý một số phương pháp nghiên
cứu trên. Trong thực tế nghiên cứu, tùy theo điều kiện và mục đích nghiên cứu cụ thể có thể sử
dụng các phương pháp khác ví dụ như phương pháp phân tích diễn ngôn (discourse analysis),
phân tích diễn ngôn phản biện (critical discourse analysis ) hay phương pháp phân tích tư liệu
(document analysis), v.v. Về cấp độ phân tích (levels of analysis) có nhiều cấp độ, song ba cấp
độ dưới đây là phổ biến:
1. Phân tích cấp độ hệ thống. Cấp độ này phân tích các vấn đề theo phạm vi toàn cầu.
2. Phân tích cấp độ quốc gia. Cấp độ này phân tích những đặc điểm của từng quốc gia
riêng lẻ và tác động hay ảnh hưởng của những đặc điểm đó đến hành vi, hay cách tiếp
cận các vấn đề mang tính toàn cầu của quốc gia (chính sách quốc gia).
3. Cấp độ phân tích cá nhân, tức là quan tâm đến ý kiến, thái độ, hành vi của cá nhân,
nhóm người hay cả dân tộc của một quốc gia.

Language Teacher, 14, 3-5.
[9] Halliday, M. A. K. (2001) [1990). New ways of meaning: The challenges to applied linguistics. In
A. Fill & P. Mülhäusler (Eds.), The ecolinguistics reader: Language, ecology and environment
(tr. 7-36). New York: Continuum. First published in Journal of Applied Linguistics 6 (1990): 736.
[10] Heller, M. (2003).Globalization, the new economy, and the commodification of language and
identity.Journal of Sociolinguistics, 7, 473-492.
[11] Kramsch, C. (2001). Intercultural communication. In R. Carter & D. Nunan (Eds.), The
Cambridge guide to teaching English to speakers of other languages. Cambridge: Cambridge
University Press, 201-206.
[12] Kramsch, C. (2010). Theorizing translingual/transcultural competence.In G. Levine & A. Phipps
(Eds.), Critical and intercultural theory and language pedagogy (tr. 15-31). Boston: Heinle
Cengage Learning.
[13] Kramsch, C. (2012). Imposture: A late modern notion in post-structuralist SLA research. Applied
Linguistics, 33, 483-502.
[14] Kramsch, C. (2014). Teaching foreign language in an era of globalization: Introduction.The
Modern Language Journal, 98(1), 296-311.
[15] Kutoba, R. (2006). Teaching second languages for national security purposes: A case of post-9/11
USA. In J. Edge (Ed.), (Re-)Locating TESOL in an age of Empire (tr. 119-138). London: Palgrave
Macmillan
18


[16] Pennycook, A. (1990). Critical pedagogy and second language education.System 18(3),

303-

314.
[17] Szanton, D. (Ed.). (2004). The politics of knowledge: Areas studies and the disciplines. California:
The University of California Press
[18] Spradley, J., & McCurdy, D. (1972).The cultural experience: Ethnography in a complex

3. Định vị ‘Quốc tế học’
Các trung tâm học thuật thuộc các quốc gia khác nhau, dựa trên những quan tâm khác
nhau, thường hướng trọng tâm nghiên cứu vào các vấn đề mang tính khu vực và toàn cầu ở các
mức độ khác nhau. Xem xét chương trình giảng dạy Quốc tế học tại 35 trường đại học, học
viện và trung tâm Quốc tế học của các nước Mĩ, Anh, Úc, Pháp, Hà Lan, Canada, Singapore,
tác giả nhận thấy, tuy có ít nhiều khác biệt về nội dung ngành học và trọng tâm học thuật,
nhưng nhìn chung, các môn học/lĩnh vực được nêu ra trong nhiệt đồ dưới đây đều xuất hiện
với tần suất khác nhau trong các chương trình đó [được thể hiện bằng các gam mầu khác nhau
từ nóng nhất (đỏ đậm: xuất hiện nhiều nhất trong các chương trình) đến lạnh nhất (lam nhạt:
xuất hiện ít nhất)]. Ở nhiệt đồ này, tác giả không nêu hết tên các môn học/lĩnh vực nghiên cứu
của các trung tâm học thuật được tham khảo vì xét thấy nhiều môn/lĩnh vực tuy với tên gọi ít
nhiều khác nhau nhưng trùng/tương tự nhau về nội dung nghiên cứu/giảng dạy.

21


NHÂN HỌC

KINH TẾ
CHÍNH TRỊ
QUỐC TẾ

LỊCH SỬ
CÁC DẠNG
THỨC GIAO
TIẾP VÀ NGÔN
NGỮ

QUẢN TRỊ
DÂN CHỦ

NGOẠI NGỮ

CÁC TỔ
CHỨC QUỐC
TẾ

NGHIÊN
CỨU ĐA
PHƯƠNG

KHU VỰC
HỌC
CÁC VẤN ĐỀ
QUỐC TẾ

XUNG ĐỘT
QUỐC TẾ VÀ
THÁCH THỨC
AN NINH

NGHIÊN CỨU
CHIẾN LƯỢC
VÀ QUỐC
PHÒNG

NGHIÊN CỨU
KHỦNG BỐ VÀ
BẠO LỰC
CHÍNH TRỊ


MÔI
TRƯỜNG

MÔI
TRƯỜNG
TOÀN CẦU

CÁC VẤN ĐỀ
VÀ XUNG
ĐỘT TOÀN
CẦU

4. Định vị sở trường của trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN (ULIS)
Xét theo nhiệm vụ, chức năng, khả năng, sở trường, truyền thống … của ULIS trong
nghiên cứu và giảng dạy hàng chục năm qua, tác giả nhận thấy vùng nhiệt đồ trong đó ‘bản sắc’
ULIS được nhận diện rõ ràng nhất nằm ở rìa trên bên phải của nhiệt đồ với các môn học/lĩnh
vực không thực sự thuộc cốt lõi ngành học (core): Ngoại ngữ, đất nước học, các dạng thức
giao tiếp và ngôn ngữ…
Dựa vào lĩnh vực chuyên môn và tiềm năng phát triển của ULIS, tác giả cho rằng nhà
trường có sở trường và có khả năng phát triển học thuật ở ba khu vực ngoại ngữ-ngôn ngữ, đất
nước học-khu vực học và văn hóa-giao tiếp với các môn cụ thể có mầu xanh lá cây (độ đậm
nhạt khác nhau thể hiện mức độ sở trường của ULIS)

22


NHÂN HỌC

KINH TẾ
CHÍNH TRỊ


CÁC TỔ
CHỨC PHI
CHÍNH PHỦ

NGOẠI
NGỮ

KHU VỰC
HÓA, QUỐC
TẾ HÓA,
TOÀN CẦU
CÁC TỔ
CHỨC QUỐC
TẾ

NGHIÊN
CỨU ĐA
PHƯƠNG

KHU VỰC
HỌC
CÁC VẤN
ĐỀ QUỐC TẾ

NGHIÊN CỨU
CHIẾN LƯỢC
VÀ QUỐC
PHÒNG



MÔI
TRƯỜNG
TOÀN CẦU

NGHIÊN CỨU
AN NINH PHI
TRUYỀN
THỐNG

KINH TẾ
CHÍNH TRỊ
SO SÁNH

CHÍNH TRỊ
MÔI
TRƯỜNG

CÁC VẤN
ĐỀ VÀ
XUNG ĐỘT
TOÀN CẦU

5. Định hướng nghiên cứu và giảng dạy Quốc tế học tại ULIS
Với các khu vực thuộc, hoặc gần gũi với, sở trường và truyền thống học thuật của ULIS,
tác giả xin được gợi ý như sau:
5.1. Khu vực ‘Đất nước học - Khu vực học’(Country and area studies)
+ Tập trung vào nghiên cứu các quốc gia có ngôn ngữ được giảng dạy tại trường (Hoa
Kì học, Trung Quốc học, Nga học, Anh Quốc học, Úc Quốc học, Nhật Bản học, Hàn Quốc học,
Pháp Quốc học, …) và tăng cường đối sánh với Việt Nam.

cho môi trường liên/đa văn hóa)
* Các kĩ năng giao tiếp: Tập trung vào nghiên cứu, phân tích và thực hành các kĩ
năng giao tiếp nội ngôn (intralinguistic), cận ngôn (paralinguistic) và ngoại ngôn
(extralinguistic) xét theo dải tiếp diễn Qui thức-Phi qui thức (Formality-Informality
continuum).

24



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status