Nâng cao vị trí, vai trò cùa tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay - Pdf 39

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN PHỤNG VƢƠNG

NÂNG CAO VỊ TRÍ, VAI TRÒ CÙA TÒA ÁN NHÂN DÂN
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số

: 60 38 01

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2012
1


Công trình đƣợc hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: GS, TS NGUYỄN ĐĂNG DUNG

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Luận văn đƣợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2012.


Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA
TOÀ ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM
2.1.

7

Quá trình hình thành và phát triển ngành toà án và vị trí vai
trò của toà án nhân dân ở Việt Nam

7

2.2.

Vị trí, vai trò của toà án nhân dân ở Việt Nam hiện nay

12

2.3.

Những bất cập ảnh hưởng đến vị trí, vai trò của tòa án
nhân dân

15

Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO VỊ
TRÍ, VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐÁP ỨNG
YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY


chủ nghĩa.
Tại Điều 2 Hiến pháp 1992 (Được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết
số 51/2001/QH10 của Quốc hội Khoá X, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày
25/12/2001) quy định “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân...Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp”[36, tr.13]
Thực hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong
những chức năng rất quan trọng của Nhà nước Việt Nam và được giao cho
TAND. Do vậy, TAND có vị trí rất quan trọng trong bộ máy nhà nước.
Tòa án có vị trí trung tâm trong các cơ quan tư pháp. Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược Cải cách tư
pháp đến năm 2020” đã khẳng định: “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các
chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và
điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó xác định Tòa án có vị trí trung
tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm” [5, tr.3]
Vị trí và vai trò của Tòa án biểu hiện qua chức năng, nhiệm vụ và
thẩm quyền của Tòa án được quy định trong Hiến pháp 1992, Luật tổ chức
TAND, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật tố tụng hành
chính và các văn bản pháp luật khác.
Theo quy định của những văn bản pháp luật nêu trên thì Tòa án là cơ
quan xét xử duy nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chức
năng xét xử của Tòa án là chức năng cơ bản và quan trọng nhất, nó bao
trùm và xuyên suốt quá trình hoạt động của Tòa án; Tòa án xét xử những
4


vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính
và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.

luật” của Tòa án; Tình trạng cán bộ tòa án, có cả các thẩm phán có những
5


hành vi vi phạm pháp luật, chạy án, bị dư luận lên án cũng là nguyên nhân
gây tâm lý mất lòng tin của người dân vào Tòa án tùy tiện, không công bằng.
Do đó, việc nghiên cứu nhằm “nâng cao vị trí, vai trò của tòa án nhân
dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay”
là vấn đề cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tôi chọn đề tài
này làm luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có một số bài viết và công trình khoa học nghiên cứu
liên quan đến vấn đề này. Như vấn đề: “Cải cách các cơ quan tư pháp,
hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét
xử của Tòa án nhân dân trong Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân, vì dân” Đề tài khoa học cấp nhà nước mã số KX.04.06 do TS Uông
Chu Lưu chủ nhiệm đề tài; “Tính độc lập của tòa án” của TS Tô Văn Hòa,
sách tham khảo, Nhà xuất bản Lao động, năm 2007; Vai trò của Tòa án
trong hệ thống tư pháp của TS Phạm Hồng Hải, Tạp chí TAND, số 1/2001;
“Về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì
dân ở Việt Nam” của GS.TS Võ Khánh Vinh, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật số 8 năm 2003; “Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền” của GS,
TS Nguyến Đăng Dung, NXB Tư pháp, năm 2004; “Cải cách tư pháp
trong tổ chức quyền lực nhà nước” của GS Nguyễn Đăng Dung, Tạp chí
Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội số 25 năm 2009; Vai trò giải thích
pháp luật của tòa án hiến pháp của Cao Vũ Minh, Đại học Luật Thành phố
Hồ Chí Minh; Đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân của LS.
Phạm Quý Tỵ; Chương trình khoa học xã hội cấp Nhà nước Đề tài KX 04-02
về “mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta trong thời kỳ công nghiêp

vì dân.
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên các ph-ơng pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng tổng hợp các ph-ơng pháp phân tích,
tổng hợp, ph-ơng pháp so sánh, tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận văn
Thông qua việc nghiên cứu đề tài này luận văn góp phần làm sáng tỏ
cơ sở lý luận và thực tiễn; đánh giá có hệ thống thực trạng các quy định
của pháp luật về v trớ, vai trũ ca TAND. Đề xuất một số quan điểm và
giải pháp pháp lý cơ bản góp phần nõng cao v trớ, vai trũ ca TAND ỏp
ng yờu cu xõy dng Nh nc phỏp quyn Vit Nam hin nay.
7. Kết cấu của Luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục
tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 ch-ơng, 7 tit.
7


Chng 1
C S Lí LUN V V TR, VAI TRề CA TềA N
TRONG NH NC PHP QUYN
1.1. Nh nc phỏp quyn
Nhà n-ớc pháp quyền là một hiện t-ợng chính trị pháp lý phức tạp,
th-ờng đ-ợc hiểu theo nhiều cấp độ. Cho đến nay ch-a có một định nghĩa
bao quát hết nội dung của nó. Tuy vậy, bao trùm lên tất cả, nhà n-ớc pháp
quyền là: nhà n-ớc tuân theo pháp luật và quản lý bằng pháp luật, xem
pháp luật có vị trí chi phối mọi hành vi của cơ quan công quyền và công
dân, hoặc nh nước pháp quyền l nh nước phục tùng pháp luật, nhấn
mạnh vào chủ thể tuân theo pháp luật tr-ớc hết là nhà n-ớc, cơ quan nhà
nước, viên chức nh nước chỉ được lm những điều pháp luật cho phép,
nhằm chống xu h-ớng tuỳ tiện, chuyên quyền, độc đoán trong hoạt động
của bộ máy nhà n-ớc.
Nhng c im c bn nht ca nh nc phỏp quyn nh sau:

tế để bảo vệ chế độ hiến định, nhân thân, các quyền và tự do của con người
và của công dân. Vai trò của Tòa án trong nhà nước pháp quyền thể hiện ở
một số điểm sau:
Thứ nhất, khẳng định trong thực tiễn nguyên tắc phân công quyền
lực trong nhà nước pháp quyền.
Thứ hai, khẳng định trên thực tiễn nguyên tắc về tính phối hợp, chế
ước, kiểm tra lẫn nhau của ba nhánh quyền lực nhà nước trong nhà nước
pháp quyền.
Thứ ba, khẳng định nguyên tắc về tính tối cao của pháp luật, pháp
luật ngự trị trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ tư, Tòa án thông qua hoạt động xét xử có vai trò bảo vệ chế độ
hiến định, nhân thân, các quyền và tự do của con người và của công dân
trong nhà nước pháp quyền.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG VỊ TRÍ, VAI TRÒ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM
2.1. Quá trình hình thành và phát triển ngành Tòa án và vị trí
vai trò của TAND ở Việt Nam
2.1.1. TAND trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
Ngày 13-9-1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà đã ra Sắc lệnh thiết lập các Tòa án quân sự, đánh dấu sự ra đời
của TAND ở nước ta.
9


Ngày 24-1-1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã ra Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức các Tòa án và các ngạch
thẩm phán. Theo Sắc lệnh này, mô hình hệ thống Tòa án tổ chức theo cấp
xét xử lần đầu tiên được hình thành ở nước ta gồm: Tòa án sơ cấp, Tòa án
đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm.


Ngày 31-12-1959, Quốc hội thông qua bản Hiến pháp năm 1959,
trong đó quy định hệ thống TAND bao gồm TAND Tối cao, các TAND
địa phương, các Tòa án quân sự. Trong trường hợp cần xét xử những vụ án
đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt. Đồng thời,
quy định các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Tòa án.
TAND Tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong
thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Các TAND địa phương chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trước hội đồng nhân dân địa phương
Ngành TAND đã tăng cường đấu tranh trấn áp bọn phản cách mạng,
trừng trị kịp thời và nghiêm khắc mọi hoạt động phản cách mạng, đặc biệt
là đối với các hoạt động gián điệp, biệt kích, hoạt động tổ chức phản cách
mạng, hoạt động chiến tranh tâm lý, phát huy đến mức cao nhất tác dụng
chính trị của việc xét xử, góp phần tiêu diệt bọn phản cách mạng ở miền
Bắc, đồng thời nêu cao tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, gây ảnh
hưởng chính trị tốt đối với miền nam.
Bên cạnh việc đấu tranh trấn áp bọn phản cách mạng, TAND đóng vai
trò quan trọng trong việc trừng trị những hành vi xâm phạm tài sản XHCN,
vi phạm các nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ quản lý kinh tế tài chính,
quản lý thị trường cũng như trong việc trừng trị các hành vi xâm phạm trật tự
trị an và an toàn xã hội, vi phạm các chính sách lớn của thời chiến. Góp phần
bảo vệ an ninh Tổ quốc, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo vệ trật tự công
cộng và an Tòan xã hội, xây dựng cuộc sống mới, con người mới...
2.1.3. TAND giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992
Ngày 18- 12-1980, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khoá IV, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam
thống nhất. Theo các quy định của bản Hiếp pháp này thì hầu hết các
nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của TAND quy định tại Hiến
pháp năm 1959 vẫn tiếp tục được ghi nhận và bổ sung thêm hai nguyên tắc

1992 (sau đó được sửa đổi, bổ sung theo các Luật sửa đổi, bổ sưng một số
điều của Luật tổ chức TAND, được Quốc hội thông qua ngày 28-12-1993 và
ngày 28-l0-1995). Đồng thời, ngày 19-4-1993, Uỷ ban thường vụ Quốc hội
thông qua Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự và ngày 14-5-1993 thông qua
Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm TAND. Với việc ban hành các văn bản
pháp luật này, tổ chức và hoạt động của TAND đã được kiện toàn và đổi mới
một bước để phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo các Nghị quyết của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá VII và khoá VIII.
12


Tương ứng với sự thay đổi về nhiệm vụ, thẩm quyền của TAND, cơ
cấu tổ chức của các TAND có sự bổ sung căn bản so với các quy định của
pháp luật trong các giai đoạn trước năm 1992. Cụ thể, về cơ cấu tổ chức
của TAND Tối cao gồm có: Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao; Uỷ ban
Thẩm phán TAND Tối cao; Tòa án quân sự Trung ương, Tòa hình sự, Tòa
dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính, các Tòa phúc thẩm của
TAND Tối cao và bộ máy giúp việc của TAND Tối cao.
TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cơ cấu tổ chức của Tòa
án cấp này gồm: Uỷ ban Thẩm phán, Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế,
Tòa lao động, Tòa hành chính và bộ máy giúp việc của TAND tỉnh.
Đối với cơ cấu tổ chức của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh mặc dù được giao thêm thẩm quyền xét xử các vụ án kinh tế,
lao động, hành chính nhưng vẫn giữ nguyên như trước đây, không có Uỷ
ban Thẩm phán và cũng không có các Tòa chuyên trách.
Có thể thấy, hệ thống Tòa án đã có những cải cách nhất định cả về tổ
chức và hoạt động, bước đầu đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của Tòa án
trong công cuộc đổi mới đất nước và phù hợp với thực tiễn đời sống kinh

- Quốc hội quyết định về ngân sách của hệ thống Tòa án trên cơ sở
dự toán ngân sách tổng thể do Chính phủ trình.
- TAND Tối cao phải báo cáo hàng năm trước Quốc hội và báo cáo
đó sẽ được xem xét tại phiên họp Tòan thể của Quốc hội. Chánh án TAND
Tối cao sẽ có thể bị Quốc hội chất vấn.
Mối quan hệ giữa hệ thống Tòa án và Quốc hội đồng thời được thể
hiện thông quan mối quan hệ giữa nó với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, cơ
quan được uỷ quyền giải quyết một số công việc của Quốc hội giữa các kỳ
họp của cơ quan này quy định tại Điều 91 Hiến pháp 1992 và Điều 25, 37
và 44 Luật Tổ chức TAND năm 2002.
2.2.1.2. Mối quan hệ với Chủ tịch nước
Theo Điều 103 Hiến pháp 1992, với tư cách là nguyên thủ quốc gia,
Chủ tịch nước có thẩm quyền đề cử ứng cử viên cho chức vụ Chánh án
TAND Tối cao để Quốc hội bầu.
Theo Điều 40 Luật Tổ chức TAND năm 2002 thì Chủ tịch nước cũng
có quyền bổ nhiệm và cách chức các phó chánh án và thẩm phán TAND
Tối cao theo đề nghị của Uỷ ban tuyển chọn thẩm phán tương ứng.
TAND Tối cao, thông qua vai trò của Chánh án, có trách nhiệm báo
cáo hàng năm lên Chủ tịch nước. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc
biệt Chủ tịch nước có quyền gửi các câu hỏi chất vấn tới TAND Tối cao và
yêu cầu trả lời bằng văn bản từ phía tòa án này. Trong các vụ việc hình sự
14


có tuyên án tử hình, người bị tuyên án có quyền xin Chủ tịch nước ân xá.
Nếu đơn xin ân xá được chấp thuận thì người bị tuyên án đó sẽ được nhận
hình phạt khác.
2.2.1.3. Mối quan hệ với Chính phủ
Sau năm 2002, Chính phủ không còn ảnh hưởng trực tiếp tới hệ
thống Tòa án như trước đây nữa. Mối quan hệ giữa Chính phủ và hệ thống

* Tòa án có vị trí trung tâm trong các cơ quan tư pháp. Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị (khoá IX) về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định:
Tổ chức các cơ quan tư pháp và các thiết chế bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa
học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó
xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm [5, tr. 3].
2.2.2. Vị trí, vai trò của Tòa án thể hiện thông qua chức năng,
nhiệm vụ của Tòa án
Theo điều 127 của Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) thì:
"TAND tối cao, các TAND địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án
khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam" [36, tr.71].
TAND là hệ thống cơ quan độc lập với thẩm quyền riêng biệt là xét
xử, thông qua hoạt động xét xử thực hiện sự kiểm tra việc tuân thủ pháp
luật của cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp. TAND trong phạm vi
chức năng của mình: Có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản
của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và
nhân phẩm của công dân.
Tòa án thông qua hoạt động xét xử (các vụ án hình sự, dân sự, hôn
nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và hành chính) có vai trò
là công cụ bảo vệ chế độ hiến định, nhân thân, các quyền và tự do của con
người và của công dân trong nhà nước pháp quyền; giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an Tòan xã hội, tạo môi trường ổn định để quốc gia phát triển đồng
thời góp phần vào hoà bình và an ninh của nhân loại. Khẳng định tính chất
công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế của nhà nước pháp quyền.
Bằng các hoạt động của mình, tòa án góp phần giáo dục công dân
trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng
những nguyên tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật khác.

lp ca Tũa ỏn hin nay khụng phi l hon ton c lp nu nh khụng
mun núi l ph thuc ca TAND a phng vo cỏc c quan chớnh
quyn a phng (y ban nhõn dõn, Hi ng nhõn dõn) v ph thuc
vo chớnh TAND ti cao.
Ngoi ra, mc dự Tũa ỏn l c quan duy nht cú quyn xột x Vit
nam, nhng phỏp lut li quy nh Quc hi cú quyn thnh lp cỏc Tũa ỏn
c bit bt c lỳc no. Tuy trờn thc t cha cú trng hp no xy ra,
nhng li th hin rng h thng Tũa ỏn khụng phi l h thng hon ton
c lp trong b mỏy nh nc Vit Nam.
2.3.2.V thm quyn ca Tũa ỏn
Theo quy nh ca B lut t tng hỡnh s thỡ cỏc v vic dõn s (bao
gm cỏc tranh chp, yờu cu v dõn s, hụn nhõn v gia ỡnh, kinh doanh
17


thương mại, lao động) thuộc thẩm quyền của Tòa án đều được liệt kê; cá
biệt có vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án với điều kiện nhất đinh, ví dụ
như điều kiệm về hòa giải cớ sở ở một số tranh chấp về lao động;
Bên cạnh đó, Luật tố tụng hành chính mới ban hành tuy đã mở rộng
thẩm quyền của Tòa án, không theo cách liệt kê 22 loại quyết định hành
chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền của Tòa án như trước đây,
nhưng lại quy đinh theo cách loại trừ. Các quy định của pháp luật về thẩm
quyền của Tòa án theo cách trên không bao quát được hết các vụ việc dân
sự trong thực tế và với quy định loại trừ như Luật tố tụng hành chính thì có
rất nhiều trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện, yêu cầu của người khởi
kiện với lý do không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trong khi họ
có quyền được yêu cầu được bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình
bằng con đường Tòa án công bằng và nghiêm minh.
Hơn nữa, hiện nay chưa có cơ chế phán quyết nào, vì thế đương
nhiên là Tòa án cũng không có thẩm quyền phán quyết về những vi

Tòa án, thậm chí chưa làm hết trách nhiệm của mình theo quy định của
pháp luật trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ, giám định, tham gia
định giá tài sản, thực hiện ủy thác tư pháp... làm cho quá trình giải quyết
vụ án gặp nhiều khó khăn...
2.3.4. Những bất cập khác liên quan đến thẩm phán
2.3.4.1. Về nhiệm kỳ của thẩm phán
Nhiệm kỳ của thẩm phán hiện nay là 5 năm. Quy định về nhiệm kỳ
của thẩm phán có ảnh hưởng không nhỏ đến tính độc lập của thẩm phán
trong khi thi hành nhiệm vụ. Việc quy định nhiệm kỳ Thẩm phán đã phần
nào đòi hỏi Thẩm phán phải cố gắng phấn đấu học tập về chuyên môn
nghiệp vụ, giữ gìn phẩm chất đạo đức để được bổ nhiệm lại trong nhiệm
kỳ tiếp theo, nhưng đây cũng là điểm làm hạn chế tính độc lập của Thẩm
phán khi xét xử. Các Thẩm phán rất ngại xét xử những vụ án phức tạp hay
các vụ án có liên quan đến người có thẩm quyền, cơ quan hành chính ở địa
phương có ảnh hưởng đến việc tái bổ nhiệm của thẩm phán.
2.3.4.2. Chế độ đãi ngộ đối với thẩm phán
Bên cạnh những thách thức và áp lực về công tác chuyên môn, thì
Thẩm phán hiện nay còn phải đối diện với một thách thức không nhỏ đó là
chế độ đãi ngộ.
Lương trên thực tế chưa đủ nuôi Thẩm phán và gia đình. Các chế độ
đãi ngộ khác cũng quá thấp chưa tương xứng với tính chất đặc thù công
việc và trách nhiệm ngày càng cao của Thẩm phán vì vậy, nguyên tắc độc
lập khi xét xử của thẩm phán cũng bị đe dọa.
19


Chƣơng 3
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO VỊ TRÍ, VAI TRÒ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


3.2. Giải pháp nâng cao vị trí, vai trò của TAND đáp ứng yêu cầu
xây dựng nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam hiện nay.
3.2.1. Đối mới hệ thống TAND
Theo tinh thần Nghị quyết 49/NQ-TW ..Ngày 02/6/2005” Bộ chính trị
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” và Kết luận số 79- KL/TW
ngày 28/7/2010 của Bộ chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của
Tòa án, Viên kiểm sát và cơ quan điều tra thì hệ thống TAND sẽ được tổ
chức thành 4 cấp, bao gồm:
- TAND sơ thẩm khu vực được thành lập ở một số hoặc một số đơn vị
hành chính câp huyện trong cùng một đơn vị hành chính cấp tỉnh, có thẩm
quyền xét xử sơ thẩm hầu hết các vụ, việc thuộc thẩm quyền của Tòa án
(theo thẩm quyền của của TAND cấp huyện hiện nay)
- TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (TAND cấp tỉnh) được
thành lập ở mỗi đơn vị hành chính cấp tỉnh, có thẩm quyền xét xử phúc thẩm
các bản án, quyết định của TAND sơ thẩm khu vực có kháng cáo, kháng
nghị và xét xử sơ thẩm một số vụ án không thuộc thẩm quyền của TAND sơ
thẩm khu vực (theo thẩm quyền của TAND cấp tỉnh hiện nay).
- TAND cấp cao xét xử phúc thẩm các bản án, quyết đinh của TAND
cấp tỉnh có kháng cáo, kháng nghị và giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án,
quyết định của Tòa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật, nhưng có kháng
nghị. Trước mắt thành lập 03 TAND cấp cao tại ba khu vực Hà Nội, Đà
Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh (Trên cơ sở các Tòa phúc thẩm TAND tối
cao tại Hà Nội, tại Đà Nẵng, tại thành phố Hồ Chí Minh hiên nay)
- TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm; tổng kết kinh nghiệm
xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; được tổ chức tinh gọn, với
số lượng thẩm phán từ 13 đến 17 người, là những chuyên gia đầu ngành về
pháp luật, có kinh nghiệm xét xử và có uy tín trong xã hội.
Với hướng tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử như trên
đã nêu cần sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật hiện này để tạo cơ

pháp đáp ứng yêu cầu của nhà nước pháp quyền trong việc kiểm soạt quyền
lực của cả cơ quan lập pháp và hành pháp; đảm bảo tính tối cao của hiến pháp
và pháp luật trong hoạt động xét xử; đảm bảo cơ chế kìm hãm và đối trọng
(kiểm tra và chế ước) của ba nhánh quyền lực nhà nước (lập pháp, hành pháp
và tư pháp); phù hợp với quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp tại Văn kiện
Đại hội Đại biểu Tòan quốc lần thứ X: ”xây dựng cơ chế phán quyết về những
vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
Với việc tăng thẩm quyền theo hướng Tòa án không bị giới hạn
phạm vi xét xử các loại vụ việc dân sự, hành chính thì cần thiết sửa đổi, bổ
22


sung các quy định của pháp luật hiện nay liên quan đến thẩm quyền của
TAND cụ thể:
- Sửa đổi bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự và theo hướng: Tòa quy định
chung TAND có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại và lao động theo quy định của pháp luật về dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động.
- Sửa đổi bổ sung Luật tố tụng hành chính theo hướng bỏ cụm từ
"trừ các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật
nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh
mục do Chính phủ quy định và các quyết định hành chính, hành vi hành
chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức” tại khoản 1 Điều 28.
Với việc tăng thẩm quyền theo hướng Tòa án có thẩm quyền xét xử
những vi phạm hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp
thì cần thiết phải:
- Sửa đổi bổ sung Luật tổ chức TAND theo hướng thành lập "Tòa án
Hiến pháp” trực thuộc TAND cấp cao và TAND tối cao, song song với các
tòa chuyên trách khác.
- Ban hành mới Luật Tố tụng về xét xử hành vi vi phạm Hiến pháp,

chế độ tiền lương và phụ cấp phù hợp với vị trí, chức năng, nhiệm vụ của
Tòa án trong hệ thống các cơ quan tư pháp và tương xứng với cường độ
lao động đặc thù của Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án; đảm
bảo cho cán bộ, công chức Tòa án có cuộc sống bằng tiền lương và các
khoản phụ cấp đặc thù; nâng cao trách nhiệm và tạo động lực để khuyến
khích Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành TAND tận tâm, tận lực, yên
tâm, gắn bó với ngành và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Tăng cường trách nhiệm của thẩm phán
Quy định về cơ chế kiểm soát tư cách cũng như hoạt động của Thẩm
phán. Bên cạnh việc có chế độ khen thưởng, động viên kịp thời cũng rất cần
có những quy định cụ thể về chế độ kỷ luật, việc miễn nhiệm, bãi nhiệm đối
với Thẩm phán, nhất là các lý do có thể sử dụng làm căn cứ buộc Thẩm phán
phải từ nhiệm hoặc bị bãi nhiệm, miễn nhiệm.
KẾT LUẬN
Tư tưởng Nhà nước pháp quyền xuất hiện từ rất sớm và từng bước
được phát triển thành giá trị văn hóa pháp lý của nhân loại. Đảng và Nhà
nước ta cùng với việc kế thừa, vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ
nghĩa Mác Lênin về nhà nước và pháp luật, xuất phát từ lịch sử thực tiễn
24


cách mạng Việt Nam, vận dụng phù hợp với đặc điểm và truyền thống
Việt Nam xác định xây dựng ”nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản”.
Tòa án được coi là nhân tố cơ bản và đóng vai trò quan trọng trong tiến
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, hiện thực hóa những tư tưởng pháp
quyền, bảo vệ quyền và tự do của con người.
Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bộ máy nhà nước được
tổ chức theo nguyên tắc quyền lực là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status