Bảo tồn tài nguyên thực vật phục vụ mục tiêu lương thực và nông nghiệp - Pdf 41

BẢO TỒN TÀI NGUYÊN THỰC VẬT PHỤC VỤ MỤC TIÊU
LƯƠNG THỰC VÀ NÔNG NGHIỆP: HIỆN TRẠNG VÀ THÁCH THỨC
Nguyễn Văn Đĩnh
1
, Nguyễn Thị Ngọc Huệ
2
, Nguyễn Ngọc Kính
3
,
Phạm Văn Hiền
4
, Nguyễn Tất Cảnh
1
và CTV
dinhnguy

1. Đặt vấn đề

Việt Nam là một đất nước đa dạng sinh học nông nghiệp và là nơi sinh sống của các loài hoang
dại thân thuộc của một số cây trồng quan trọng (bao gồm lúa, cây ăn quả v.v…). Trong nửa thế
kỷ qua, Việt Nam đã trải qua một giai đoạn lịch sử phức tạp, hậu quả của chiến tranh đã ảnh
hưởng to lớn đến đa dạng sinh học.
Nhà nước Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn để ngăn chặn suy giảm đa dạng sinh học nói
chung và tài nguyên di truyền thực vật nói riêng. Một trong các biện pháp được ưu tiên đó là
xây dựng các qui định pháp luật, nâng cao nhận thức của các bên liên quan. Những luật và các
Hiệp ước phù hợp nhất mà Chính phủ Việt Nam kí kết với quốc tế là sự chấp thuận của Hiệp
ước Đa dạng sinh học (CBD) năm 1994, kế hoạch hành động Việt Nam về bảo vệ đa dạng sinh
học ban hành tháng 12/1995; sự chấp thuận kế hoạch hành động toàn cầu của FAO năm 1996
và sự chấp thuận của Chương trình nghị sự 21 đối với Việt Nam năm 2004.
Trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) ngày
7/11/2006, sau 1 năm gia nhập WTO, hiện nay Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN &

Nhận thức được tầm quan trọng của TNDTTVLN nhiều nước trên thế giới đã tập trung cho bảo
tồn ex situ, cho đến những năm 90 thì bắt đầu quan tâm nhiều đến bảo tồn in situ, hiện nay xu
thế là kết hợp 2 phương pháp này thành chiến lược bảo tồn tương hỗ (complement strategy).
Liên Xô cũ là nước đi tiên phong trong nhiệm vụ bảo tồn quỹ gen cây nông nghiệp: Thành lập
Viện Nghiên cứu cây trồng liên bang năm 1924, đang lưu giữ 185.204 mẫu giống của 10.707
loài cây trồng.
Mỹ đã xây dựng Ngân hàng gen cây trồng đa dạng di truyền nhất thế giới, đang bảo tồn
464.234 giống của 19.007 loài thực vật.
Ấn Độ và Trung Quốc là hai nước có Ngân hàng gen cây trồng lớn nhất thế giới về số lượng
giống. Trung Quốc đang bảo tồn 516.505 mẫu giống của 680 loài, Ấn Độ có 412.731 mẫu
giống của 1807 loài. Vương quốc Anh hiện cũng có ngân hàng gen lớn về số lượng mẫu giống
với 489.802 mẫu của 4368 loài.
Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan mới tiến
hành nhiệm vụ bảo tồn quỹ gen cây nông nghiệp từ đầu những năm 1980, nhưng hiện là những
nước và lãnh thổ có đầu tư lớn và có trình độ công nghệ tiên tiến trong bảo tồn quỹ gen. Hiện
nay, 135 nước đã có Ngân hàng gen cây trồng Quốc gia.
Ngân hàng gen cây trồng quốc tế đầu tiên do Nhóm Tư vấn về Nghiên cứu nông nghiệp quốc tế
(CGIAR) của Liên hợp quốc quản lý là Ngân hàng gen lúa quốc tế của Viện nghiên cứu lúa
quốc tế (IRRI) tại Philippines, thành lập năm 1964. Sau Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ nhất về
môi trường họp năm 1972, nhiều ngân hàng gen cây trồng của các Viện nghiên cứu nông
nghiệp Quốc tế được thành lập. Đó là Ngân hàng gen Ngô và Lúa mỳ tại Trung tâm nghiên cứu
quốc tế về ngô và lúa mỳ (CIMMYT), Mexico; Ngân hàng gen Sắn tại Trung tâm nông nghiệp
nhiệt đới (CIAT), Colombia; Ngân hàng gen Khoai tây và Khoai lang tại trung tâm khoai tây
Quốc tế (CIP), Peru; Ngân hàng gen Lạc, Kê và Cao lương tại Viện quốc tế về cây màu nhiệt
đới (ICRISAT), Ấn Độ; Ngân hàng gen củ mỡ tại Viện quốc tế về nông nghiệp nhiệt đới
(IITA), Nigeria v.v... Cho đến nay trên thế giới đang bảo tồn ex-situ trên 6.000.000 nguồn gen
cây nông nghiệp, trong đó 87,0% ở các Ngân hàng gen cây trồng cấp quốc gia, 11,0% ở các
Ngân hàng gen cấp quốc tế và 2% của các tổ chức phi chính phủ và tư nhân.
Hiện nay Chiến lược bảo tồn tài nguyên di truyền thực vật là kết hợp hài hoà hai phương pháp
ex-situ và in-situ. Để khắc phục những khiếm khuyết của phương pháp bảo tồn ex-situ đối với

Diện tích lãnh thổ không lớn nhưng Việt Nam là một trong 15 quốc gia đa dạng và giàu có nhất
thế giới về tài nguyên di truyền thực vật, với dự tính có thể có 20.000-30.000 loài thực vật
chiếm 6,5% số loài có trên thế giới. Nhóm sinh vật vi tảo ở vùng nước ngọt được xác định là
1.438 loài, chiếm 9,6% so với thế giới (số loài có trên thế giới là 15.000), các loài thực vật bậc
cao có 11.373 loài chiếm 5% số loài của thế giới (số loài trên thế giới 220.000 loài) và 826 loài
nấm (Đánh giá thực hiện Công ước đa dạng sinh học ở Việt Nam giai đoạn 1995-2005). Theo
số liệu hiện nay, hệ thực vật Việt Nam có trên 14.000 loài thực vật bậc cao. Nếu so sánh với
Bắc Mỹ bao gồm Hoa Kỳ và Canada diện tích gần 20 triệu km
2
, cả châu Úc diện tích 7 triệu
km
2
cũng chỉ có tương ứng là 12.000 và 8.000 loài. Điều quan trọng khác là tỷ lệ các loài cây
bản địa của Việt Nam cao, đến 40%, là tỷ lệ mà ít nước có. Như đối với cây lúa, cây trồng
truyền thống của Việt Nam, Nguyễn Hữu Nghĩa và Lê Vinh Thảo (2007) đã mô tả các loại hình
phong phú và chất lượng thơm ngon đặc biệt cũng như có chứa nhiều chất khoáng quan trọng
đối với cơ thể con người và đã dẫn các số liệu cho thấy trong tổng số 464 giống lúa đại diện ở
miền Bắc Việt Nam đưa vào phân loại dựa trên mẫu Isozyme có 147 giống đặc sản chiếm
36,68%.
Nhiều nguồn gen thực vật quý của Việt Nam đã góp phần tạo nên thắng lợi của Cách mạng
xanh và sẽ đóng góp lớn cho thành tựu nông nghiệp của cả nhân loại trong tương lai. Nguồn
gen kháng bệnh Đạo ôn lúa của nhóm giống lúa chiêm Tẻ tép là một trong những nguồn gen
kháng Đạo ôn chủ lực trên thế giới, có mặt trong các giống lúa kháng sâu bệnh tổng hợp nổi
tiếng như IR36, IR64 ... Nguồn gen của loài lúa hoang dại Oryza rufupogon thu thập tại Điện
Biên Phủ và Đồng Tháp Mười được Viện Nghiên cứu lúa quốc tế đánh giá là kháng bệnh Vàng
lụi và chịu chua phèn nhất thế giới. Cả hành tinh có ba nhóm giống lúa thơm là Basmati ở Ấn
Độ, Pakistan; Khaodak Mali ở vùng trung và hạ lưu sông Cửu Long và Tám thơm ở đồng bằng
sông Hồng, tức là Việt Nam có hai nhóm lúa thơm. Đáng chú ý lúa Tám thơm là lúa Japonica.
Đây là vấn đề có ý nghĩa khoa học lớn, mở ra hướng lai tạo các giống lúa thơm ở vùng ôn đới
là nơi chỉ có lúa Japonica nhưng lại không có nguồn gen lúa thơm. Nhiều giống của nhiều loài


Do ảnh hưởng của chiến tranh, thiên tai như lũ lụt, hạn hán và do khai thác bừa bãi và một phần
bị lạm dụng bởi các tổ chức và cá nhân nước ngoài, hàng năm có khoảng 300-400 giống tại các
địa phương có nguy cơ cao bị xói mòn nguồn gen, trong đó có nhiều giống địa phương quí
hiếm (ví dụ: Năm 1996 số loài bị đe doạ mất là 356, năm 2003 đã là 450). Nhiều giống lúa quí
của Việt Nam có giá trị rất cao trong việc lai tạo giống lúa thơm thương mại hiện nay không thể
tìm thấy tại Việt Nam mà chúng đã thuộc quyền sở hữu của một số quốc gia khác. Một ví dụ về
sự mất mát nguồn gen theo Averyanov et al. (2003), Trần Thị Hoà (2007) về khai thác kiệt loài
lan quí Paphiopedilum hangianum thuộc chi lan hài, đến năm 2001, sau 2 năm thu mua bùng nổ
tất cả các quần thể được biết hầu như bị tuyệt diệt ngoài thiên nhiên.
Từ những thông tin phân tích cho thấy TNDTTVLN ở Việt Nam đã và đang bị suy giảm
nghiêm trọng do tác động của các yếu tố kinh tế, yếu tố văn hoá, xã hội và yếu tố sinh học. Các
yếu tố chính bao gồm:
- Áp lực tăng dân số, và nghèo đói,
- Tàn phá hệ sinh thái bao gồm nạn phá rừng và khai thác rừng không hợp lý dẫn đến thoái hoá
đất, mất hệ thống canh tác truyền thống dẫn đến mất dần cây trồng bản địa.
- Sử dụng giống mới năng suất cao làm thay đổi cơ cấu giống cây trồng, Du nhập các loài ngoại
lai.
- Thiên tai, sâu bệnh và các điều kiện ngoại cảnh bất lợi;
- Môi trường thay đổi dưới áp lực của công nghiệp hoá, đô thị hoá, tăng mạnh sử dụng phân
hoá học và thuốc trừ sâu.
- Kinh tế thị trường
- Nhận thức về bảo tồn của các bên liên quan yếu; Quản lý lỏng lẻo, không chặt chẽ...
Tất cả những vấn đề nêu trên cho thấy biện pháp tổ chức và quản lý hợp lý nhiệm vụ bảo tồn để
phục vụ cho khai thác, sử dụng có hiệu quả tài nguyên cây nông nghiệp là nhiệm vụ khoa học
cấp bách của nước ta hiện nay.
5. Những nỗ lực bảo tồn tài nguyên di truyền thực vật lương nông ở Việt
Nam
Nhiệm vụ bảo tồn tài nguyên di truyền cây nông nghiệp ở nước ta được tiến hành từ sau Chiến
tranh thế giới lần thứ nhất. Lúc bấy giờ Đông Dương là xứ xuất khẩu gạo quan trọng. Để xúc

chủ quyền và bảo tồn có hiệu quả tài nguyên di truyền thực vật của mình.
Dưới đây là một số kết quả đáng khích lệ về bảo tồn và sử dụng TNDTTVLN trong thời gian
qua.
Bảo tồn và phát triển ngoại vi tài nguyên di truyền lương nông nghiệp
Trong hơn 20 năm qua, kể từ khi Kế hoạch hành động đa dạng sinh học quốc gia được thông
qua (1995) bảo tồn ex-situ và phát triển TNDTTVLN đã được chú ý đầu tư đáng kể.
Duy trì bền vững các tập đoàn ngoại vi (ex situ) hiện có: Có 30 đơn vị tham gia triển khai nội
dung này (Trần Đình Long, 2007)
Tổng số khoảng 40.000 nguồn gen cây trồng, thuộc khoảng 200 loài đã được thu thập và bảo
tồn ngoại vi tại các vườn tập đoàn, tập đoàn trong ống nghiệm, hoặc tập đoàn hạt, bao gồm cả
những vật liệu di truyền có giá trị kinh tế cao. Nhiều mẫu giống lưu giữ đã được sử dụng hiệu
quả trong công tác cải tiến giống cây trồng. Đặc biệt là tại Ngân hàng gen cây trồng quốc gia,
(VAAS), hơn 12.300 nguồn gen của 115 loài, bao gồm cả các giống địa phương, giống truyền
thống và loài họ hàng hoang dại đang được lưu giữ. Các tập đoàn đồng ruộng lưu giữ tại Trung
tâm Tài nguyên Thực vật và tại các cơ quan khác trong hệ thống TNDTTV bao gồm khoai môn
sọ, chuối, khoai lang, từ vạc, cây có múi, xoài, nhãn, ...v.v cũng là những vật liệu và là nguồn
gen có giá trị lớn đối với công tác chọn tạo giống. Hàng năm có khoảng 1.000 nguồn gen từ các
tập đoàn ngoại vi được sử dụng vào các mục đích nghiên cứu chọn tạo giống và công nghệ sinh
học.
Phục hồi các mẫu giống bị đe doạ trong các tập đoàn: có 41 tập đoàn ngoại vi bị đe doạ đã
được phục hồi bằng các phương pháp nhân mới, cứu phôi, thu thập lại tại 19 cơ quan nghiên
cứu. Kết quả đạt được trong lĩnh vực này còn rất hạn chế và chưa đáp ứng được yêu cầu của
thực tế.
Hỗ trợ việc thu thập và nhập nội TNDTTVLN theo kế hoạch và có mục tiêu: Có khoảng 28
chương trình, dự án hoạt động trong lĩnh vực này nhằm kiểm kê, thu thập, nhập nội, mô tả,
đánh giá và xây dựng các tập đoàn ngoại vi của các các cây như lúa, chuối, sắn, khoai lang, từ
vạc, khoai môn sọ cây rau, đậu, các cây ăn quả có múi và nhiều cây khác. Trong vòng 15 năm
trở lại đây, Việt Nam đã nhập nội hàng vạn giống, dòng các loại cây trồng từ Trung Quốc, Đức,
Úc, Hà Lan, Thái Lan, Hàn Quốc và từ các tổ chức Quốc tế khác như AVRDC, CIRAD, IRRI,
CIP, ICRISAT...Tuy nhiên do thiếu đội ngũ nhân viên kỹ thuật, do hạn chế về tài chính và thiếu

rộng việc sử dụng TNDTTVLN, và thúc đẩy sự tham gia của các cộng đồng nông dân và các tổ
chức, ngành nghề khác trong công tác bảo tồn TNDTTVLN. Thông thường, vùng là các huyện
và tiểu vùng là các xã, thôn bản với những đặc tính về nông nghiệp, xã hội, kinh tế và điều kiện
tự nhiên, vừa đặc trưng vừa đại diện cho vùng sinh thái được lựa chọn để nghiên cứu các khía
cạnh về sinh học, kinh tế và xã hội liên quan và xây dựng các mô hình bảo tồn trên đồng ruộng.
Các hoạt động đã đạt được một số những kết quả đáng kể, các mô hình bảo tồn trên đồng ruộng
của hộ gia đình đã được thiết lập cho lúa và khoai môn sọ tại các điểm đã lựa chọn, bao gồm 7
điểm thuộc 5 vùng sinh thái (Vùng núi phía Bắc: huyện Đà Bắc, Hoà Bình; Huyện Sapa, Lào
Cai; Vùng bán sơn địa: huyện Nho Quan, Ninh Bình; Vùng châu thổ sông Hồng: huyện Nghĩa
Hưng, Nam Định; Châu thổ sông Cửu Long: huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh; Vùng Tây Nguyên:
huyện Krông Nô, tỉnh Đắc Lắc Huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Kết quả là những
giống cây trồng cổ truyền có giá trị không những được duy trì mà còn được phục hồi và phát
triển; một số đáng kể các giống địa phương của các loài cây trồng như lúa, ngô, rau và đậu đỗ
với những đặc tính quý và được ưa chuộng đã được phục tráng và trồng trong sản xuất với qui
mô lớn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng. Kiến thức bản địa liên quan đến bảo tồn và
phát triển TNDTTV cũng được quan tâm nghiên cứu tại các điểm đã lựa chọn.
“Tăng cường vai trò của vườn gia đình trong việc bảo tồn nội vi TNDTTVNN” thông qua: (1)
tư liệu hoá đa dạng về loài và đa dạng di truyền thực vật trong vườn gia đình, nghiên cứu các
yếu tố sinh học, văn hoá và xã hội ảnh hưởng đến sự phân bố và duy trì sự đa dạng đó; (2) xây
dựng phương pháp và cách tiếp cận để vườn gia đình trở thành một hợp phần của bảo tồn đa
dạng sinh học nông nghiệp; và (3) phát triển chiến lược “bảo tồn thông qua sử dụng” như là
một phần của bảo tồn ngoại vi và nội vi. Dự án đã được triển khai tại Huyện Thuận An, tỉnh
Bình Dương, đại diện cho đồng bằng phía Nam; Huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định, đại diện
cho đồng bằng phía Bắc; Huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình và huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La
đại diện cho vùng núi phía Bắc và huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An đại diện cho vùng đồi núi
Bắc Trung bộ. Tại những điểm này có vườn gia đình phong phú và đa dạng về tài nguyên di
truyền thực vật, có các hộ gia đình giầu kinh nghiệm làm vườn. Các loài thực vật phổ biến,
phân bố rộng rãi trong vườn gia đình, các loài cây đặc hữu, đa dạng di truyền cao, có giá trị
kinh tế xã hội lớn, có vai trò quan trọng trong sinh kế hộ gia đình, đồng thời lại có thể được bảo
tồn và sử dụng bền vững, đã được chọn làm những loài tiêu biểu để dự án nghiên cứu, bao gồm

“Tăng cường bảo tồn nội vi các loài họ hàng với cây trồng và các loài hoang dại có giá trị
nông nghiệp” có 8 chương trình, đề tài, hoạt động. Việc bảo vệ các loài cây họ hàng với cây
trồng và những cây hoang dại có giá trị nông nghiệp trong các khu vực bảo vệ tự nhiên cũng đã
được đẩy mạnh, và tổng số các khu bảo tồn thiên nhiên được nâng lên.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status