Một số đặc điểm của phật giáo việt nam trong thời kỳ bắc thuộc (Tóm tắt, trích đoạn) - Pdf 42

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

NGUYỄN VĂN THẮNG

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO
VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ BẮC THUỘC
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 60 22 03 09

Ngƣời hƣớng dẫn: Đỗ Thị Hòa Hới

Hà Nội - 2016


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài. ........................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 7
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 7
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................... 8
6. Đóng góp của luận văn................................................................................ 8
7. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 9
NỘI DUNG..................................................................................................... 10
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ CHO SỰ RA ĐỜI CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA PHẬT
GIÁO VIỆT NAM THỜI KỲ TỪ ĐẦU CÔNG NGUYÊN ĐẾN THẾ KỶ
VI..................................................................................................................... 10

QUAN ĐẾN LUẬN VĂN.............................................................................. 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 90


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong các tôn giáo ở Việt Nam, Phật giáo là tôn lớn giáo được truyền vào từ
rất sớm. Với số lượng tín đồ, chức sắc lớn hơn các đạo Công giáo, đạo Cao Đài,
Phật giáo Hòa Hảo, cùng với các yếu tố lịch sử để lại, cộng thêm những tác động
của yếu tố thời đại, Phật giáo ở nước ta đang là vấn đề liên quan đến chính sách
đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Do đó việc nghiên cứu Phật giáo nói
chung, lịch sử du nhập, hình thành các đặc trưng, đặc điểm Phật giáo Việt Nam
nói riêng là rất cần thiết.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam đã trên dưới 2000 năm, gắn bó đồng hành
cùng dân tộc và có mối quan hệ khăng khít với văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội
trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và bảo vệ Tổ quốc. Phật giáo có mục đích
cao cả là đem lại hạnh phúc cho chư Thiên và an lạc cho loài người. Trên nguyên
tắc hooaf hợp, tùy thuận chúng sinh nên tuy là yếu tố văn hóa “ngoại sinh”
nhưng được dân tộc Việt Nam đón nhận một cách tự nhiên, như cây có nước và
được hấp thụ chuyển hóa tạo thành một bộ phận hữu cơ và tạo nên những nét đặc
sắc trong văn hóa dân tộc. Phật giáo theo thời gian đã có sự tiếp thu, hấp thụ, ảnh
hưởng sâu đậm trong ý thức tư tưởng của người Việt hình thành nên Phật giáo
Việt Nam.
Phật giáo với tư tưởng hòa đồng, cùng với tinh thần từ bi và trí tuệ đã trở
thành điểm tựa vững chắc, một công cụ sắc bén để giữ gìn bản sắc dân tộc,
chống lại âm mưu đồng hóa của phong kiến phương Bắc suốt hơn 1000 nam Bắc
thuộc. trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua các thời kỳ lịch sử, tinh
thần Phật giáo được vận dụng vào kế sách trị nước an dân. Bản thân Phật giáo
cùng các vị cao tăng cũng có những đống góp đáng kể vào sự hưng thịnh của
quốc gia, trường tồn của dân tộc.

Suốt chiều dài tồn tại, vận động và phát triển với lịch sử dân tộc Phật giáo để lại
những dấu ấn đậm nét trên bình diện rộng lớn từ tư tưởng, tình cảm, phong tục

2


tập quán, lối sống văn hóa tín ngưỡng. Với vai trò ảnh hưởng đa chiều sâu đậm,
Phật giáo trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều học giả, trong đó Phật giáo
thời kỳ đầu Bắc thuộc cũng được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu, dưới
đây là những công trình tiêu biểu:
Một là, những công trình nghiên cứu về lịch sử Phật giáo: Công trình nghiên
cứu sớm nhất về lịch sử Phật giáo Việt Nam là tác phẩm “Thiền uyển tập anh”.
Công trình tập trung nghiên cứu về hai dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn
Thông, khi viết về thời gian Phật giáo du nhập có nghi: “Giao Châu có đường
thông với Thiên Trúc. Khi Phật pháp mới đên Giang Đông chưa khắp thì ở Luy
Lâu đã có tới hai mươi ngôi bảo sát, độ được hơn năm trăm vị tăng, và dịch được
mười lăm quyển kinh rồi”. Như vậy Phật giáo đã truyền đến Giao Châu
trước”[81, 84].
Đến giai đoạn trước cách mạng tháng Tám ở nước ta có hai công trình
nghiên cứu về Phật giáo là: “Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ thứ
XIII ” của Trần Văn Giáp và cuốn: “Việt Nam Phật giáo sử lược” của Thích Mật
Thể. Hai công trình nghiên cứu này để lại những kiến thức và phương pháp
nghiên cứu cho những người kế cận tìm hiểu và nghiên cứu về Phật giáo. Tuy
nhiên hai công trình này nghiên cứu với số lượng trang không nhiều nên trình
bày về lịch sử Phật giáo Việt Nam còn sơ lược, đại cương. Trong đó phần nghiên
cứu về thời kỳ đầu Bắc thuộc cũng không phải là ngoại lệ. Lịch sử Phật giáo Việt
Nam” gồm 3 tập của Lê Mạnh Thát. Trong đó tập 1 tác giả chuyên nghiên cứu về
“Lịch sử Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thời Lý Nam Đế” với dung
lượng hơn 400 trang. Đây có lẽ là cuốn sách nghiên cứu kỹ nhất từ trước đến nay
về Phật giáo từ thời kỳ đầu Bắc Thuộc. Với nguồn tư liệu phong phú tác giả đưa

nghiên cứu Phật giáo Việt Nam thời kỳ đầu du nhập và Bắc thuộc (từ đầu Công
nguyên cho đến thế kỷ X) do nhà nghiên cứu Phật học Minh Châu viết. Riêng
phần Phật giáo từ khi du nhập cho đến thế kỷ VI được tác giả trình bày, phân
tích khá kỹ với dung lượng chín mươi lăm trang, nhưng chưa có phân tích các
đặc điểm.

4


Hai là, nhóm các công trình nghiên cứu về tư tưởng Phât giáo có các công
trình tiêu biểu như: năm 1999, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, xuất bản cuốn
sách “Tư tưởng Phật giáo Việt Nam” của Nguyễn Duy Hinh. Cuốn sách có dung
lượng hơn 800 trang và được chia làm bốn chương trong đó phần Phật giáo thời
Bắc Thuộc được trình bày ở chương II với tiêu đề: Buổi dầu Phật giáo Việt Nam.
Trong chương II, tác giả trình bày quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo,
đồng thời tác giả cũng đi sâu phân tích những kinh kệ được sử dụng trong giai
đoạn này, từ đó đưa ra những phân tích, đánh giá sâu sắc như: “Như vậy vào
cuối thế kỷ II đầu thế kỷ III Công nguyên Phật giáo Đại thừa đã có mặt ở Giao
Chỉ trực tiếp từ Ấn Độ. Người Việt tiếp xúc với Phật chứ không phải Thích Ca
Mầu Ni, nghĩa là với vị THẦN LINH chứ không phải với một người THẦY.
Giới luật với sự có mặt của Tỳ kheo và cư sĩ chứng minh Tăng già Phật giáo đã
thực sự tồn tại ở Giao Chỉ”[39, 169], hay “Trong câu trả lời này Mâu Tử đồng
nhất Phật giáo với Đạo giáo và Nho giáo. Tư tưởng tam giáo đồng nhất đã xuất
hiện. Việc dùng Đạo giáo giải thích Phật giáo giải thích Phật giáo là xu hướng
chung của những người dịch kinh Trung Quốc. Nếu như đây chính là lời Mâu Tử
thì ông là Tổ sư tư tưởng tam giáo đồng nhất”[39, 199]. Đồng thời sách cũng chỉ
ra được mối tương quan giữa Phật giáo với Nho giáo và Đạo giáo.
Năm 1993, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội đã cho
xuất bản cuốn “Lịch sử tư tưởng Việt Nam” do Nguyễn Tài Thư chủ biên với
dung lượng gần 500 trang. Tập 1 viết từ thời kỳ nguyên thủy cho đến thế kỷ

hóa Lạc Việt với nền văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ đưa vào”[70, 159 – 160].
Khi phân tích Lục độ tập kinh tác giả viết: “Lục độ tập kinh tham gia tích
cực vào không những sự nghiệp truyền bá giáo lí Phật giáo, mà còn vào trách
nhiệm bảo vệ văn hóa dân tộc thể hiện nguyện vọng chính đáng và trăn trở đau
thương của dân tộc ta vào thời điểm tác phẩm ấy ra đời. Hai nhiệm vụ ấy được
thống nhất thành một thể, để cho việc thực hiện nhiệm vụ này, đồng thời hoàn
thành nhiệm vụ kia. Nếp sống Đạo thống nhất với cuộc sống đời không có
khoảng cách phân ly, không có màu sắc phân biệt. Sống đạo một cách trọn vẹn
tức phục vụ đời một cách viên mãn, và sống đời một cách tốt đẹp là thể hiện đạo

6


một cách cụ thể tròn đầy. Yêu cầu “ngôn hành tương phò” (truyện 21), đời đạo
hợp nhất, là nét đặc trưng của Phật giáo thời Lục độ tập kinh.
Bốn là, một số công trình nghiên cứu đã được công bố trên báo và tạp chí.
Khi đi nghiên cứu làm rõ vấn đề phân tích một số bài tạp chí trực tiếp hoặc gián
tiếp đề cập đến những đặc điểm Phật giáo Việt Nam thời Bắc thuộc như trong tài
liệu số: (14), (21), (54).
Năm là, Các công trình luận văn, luận án có trực tiếp khái qua những đặc
điểm của Phật giáo Việt Nam thời Bắc thuộc như trong tài liệu số: (5) và (12).
Tựu chung lại, các công trình nghiên cứu kể trên trực tiếp hoặc gián tiếp ít
nhiều có phân tích về những đặc điểm của Phật giáo Việt Nam thời Bắc thuộc.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ tập trung những
điều kiện, tiền đề, nội dung, đặc điểm Phật giáo trong giai đoạn này. Từ đó chỉ ra
ảnh hưởng của nó đến sự phát triển của lịch sử Phật giáo Việt Nam. Cho nên, tôi
đã chọn vấn đề: “Một số đặc điểm của Phật giáo Việt Nam trong thời Bắc
thuộc”, làm đề tài luận văn thạc sĩ tôn giáo học của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:

Đề tài đươ ̣c thực hiê ̣n dựa trên quan điể m của Chủ nghiã Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh , đường lố i , chính sách của Đảng C ộng sản Việt Nam và
pháp luật của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về tín ngưỡng, tôn
giáo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp duy vật lịch sử và duy vật biện chứng được sử dụng nhằm
hiểu đối tượng nghiên cứu một số đặc điểm của Phật giáo Việt Nam trong thời
Bắc thuộc, từ đó thấy được quá trình vận động và phát triển của nó trong lịch sử
Phật giáo Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu tôn giáo học như xuất phát từ cấu trúc chúc,
năng tôn giáo…
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu liên ngành như: Phương pháp nhân học tôn giáo, phương pháp
sử học…
6. Đóng góp của luận văn

8


Về mặt học thuật: Luận văn đưa ra những nhận thức mới có tính hệ thống,
khái quát các đặc điểm của Phật giáo Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến lịch sử
Phật giáo Việt Nam, bước đầu phân tích những đặc điểm này dưới góc độ Tôn
giáo học.
Luận văn trình bày khái quát các tiền đề, điều kiện cho quá trình du nhập
và phát triển hình thành nên các đặc điểm của Phật giáo Việt Nam trong thời đầu
Bắc Thuộc. Từ đó đi sâu phân tích những nội dung một số đặc điểm của Phật
giáo trong thời kỳ đầu Bắc thuộc và ảnh hưởng của chúng đến sự phát triển của
Phật giáo Việt Nam từ góc độ tôn giáo học.
Về giá trị thực tiễn: Luận văn này có thể làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu và giảng dạy vè Phật giáo nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng.

Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta”[10, 56]
Phong trào khời nghĩa thắng lợi suy tôn Trưng Vương lên địa vị vua Bà,
đứng đầu đất nước, là sự trỗi dậy ý thức dân tộc, ý thức tự chủ, tự mình làm chủ
vận mệnh đất nước, ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống. Cuộc khởi
nghĩa Hai Bà Trưng sau đó bị Mã Viện đàn áp dã man, nhưng nó nhen nhóm lên

10


tinh thần yêu nước, coi độc lập dân tộc là cái quý nhất, gieo hạt giống tốt vào
truyền thống yêu nước của người Việt. Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Lê Văn
Hưu đề cao công lao của Hai Bà Trưng trong lịch sử dân tộc “Trưng Trắc, Trưng
Nhị, là đàn bà, hô một tiếng là các quân Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng 65
thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng Vương dễ như trở bàn
tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta, đủ dựng được nghiệp bá Vương”[82, 56].
Sau cuộc đàn áp tàn bạo của Mã Viện, phong trào đấu tranh vũ trang của
nhân dân Giao Châu bị chìm lắng đi một thời gian. Chính sách nô dịch, bóc lột
và đồng hóa được đẩy mạnh hơn trước. Chế độ lạc tướng cha truyền con nối của
người Việt ở các quận, huyện bị bãi bỏ, chế độ quận, bộ máy cai trị các cấp của
đế chế Hán được tăng cường. Nhưng hệ thống cai trị nhà Hán vẫn không với tay
được xuống dưới làng xã, vẫn không phá vỡ được kết cấu gốc cơ của xã hội
Việt, nghĩa là vẫn không khống chế nổi đông đảo các tầng lớp nhân dân. Ngay
Mã Viện, dù đã đàn áp xong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vẫn phải thừa nhận
sự thật: xã hội Việt khác xã hội Hán, không thể bê nguyên xi pháp độ Hán
phương Bắc sang áp dụng ở đất Việt với kết cấu làng xã bền vững.
Từ năm 190 đến năm 317, chính quyền trung ương Trung Hoa suy yếu,
tan rã, quan lại Hán nắm toàn bộ quyền hành ở Giao Châu như một chính quyền
cát cứ. Thứ sử, Thái thú dùng con em và người đồng hương làm trưởng lại, tìm
mọi cách đục khoét, vơ vét của cải của nhân dân. Các thế lực cát cứ luôn tìm
cách chém giết nhau, đất Giao Châu là vật giành đi giật lại giữa chúng với nhau.

triệt hạ, quan lại giặc từ Thái thú đến Huyện trưởng kẻ bị giết, kẻ chạy trốn. Từ
Cửu Chân cuộc khởi nghĩa đã lan ra Giao Châu ở ngoài Bắc. Thứ sử Giao Châu
mất tích “Một câu nói, tương truyền là lời Bà Triệu phát ra trên núi nghĩa nghìn
thu còn vang vọng mãi: Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ,
chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang san, cởi ách nô
lệ, chứ tôi không chịu khom lưng làm tỳ thiếp cho người ta”[50, 245].
Đứng trước nguy cơ tan rã của chính quyền đô hộ ở Giao Châu, triều Ngô
đã cử danh tướng Lục Dận sang đàn áp. Khởi nghĩa Bà Triệu thất bại,nhưng hình
ảnh người phụ nữ kiên cường bất khuất, người nữ anh hùng dân tộc, quyết nối

12


chí Bà Trưng, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ muôn thuở không mờ trong tâm
trí người dân Việt.
Từ cuối thế kỷ thứ III đến đầu thế kỷ thứ VI triều đình trung ương phương
Bắc suy yếu, sức ly tâm chính trị ở Giao Châu ngày một lớn. Nam triều với các
triều Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần mức độ tập quyền rất yếu, dẫn đến cơ
hội cho các cuộc nổi dậy ở Giao Châu. Từ triều Tấn đến triều Lương thực tế là
một chính quyền cát cứ hoặc do bọn chỉ huy quân sự địa phương, hoặc ở trong
tay bọn Thứ sử, Thái thú “lập nghiệp” trên đất Giao Châu lâu đời, biến thành “cư
tộc” bản địa. Chính những “cư tộc” này đã từng bước đứng ra nhận nhiệm vụ
đấu tranh giải phóng dân tộc thay thế cho các tầng lớp quý tộc, bộ lạc cũ với đại
diện như Bà Trưng, Bà Triệu.
Tình hình chiinhs trị ở Giao Châu vào nửa cuối thế kỷ thứ VI là một thời
điểm đột phá lớn trong lịch sử hơn ngàn năm chống Bắc thuộc của dân Việt, nó
đánh dấu bằng cuộc khởi nghĩa lớn của Lý Bí, sau đó là thời kỳ độc lập, tự chủ
tạm thời. “Vua họ Lý, tên húy là Bí người Thái Bình, phủ Long Hưng. Tổ tiên là
người Bắc, cuối thời Tây Hán khổ về việc đánh dẹp, mới tránh sang đất phương
Nam, được bảy đời thì thành người Nam. Vua có tài văn võ, trước làm quan với

yếu được chế tạo bằng sắt, đến những đồ dùng nhỏ cũng được chế tạo bằng sắt.
Truyền thống chế tạo bằng sắt ở địa phương có từ trước Công nguyên, thời đại
Đông Sơn sự truyền bá kỹ thuật rèn đúc sắt, gang từ miền nội địa Trung Quốc
xuống, qua di dân Hán. Sự giao lưu với Thiên Trúc (Ấn Độ), một trung tâm lớn
về sản xuất vàng, bạc, đồng, sắt, chì, thiếc hẳn cũng có tác dụng thúc đẩy nghề
luyện kim miền đất Việt. Trên nền tảng đồ sắt phát đạt, thông qua cuộc đấu tranh
lâu dài, gian khổ của nhân dân để phát triển sản xuất nông nghiệp cũng như toàn
bộ nền kinh tế quốc dân có những bước phát triển đáng kể, là cơ sở cho đời sống
tinh thần được nâng lên.
Nông nghiệp.
Đồ sắt phát triển, dân có nhiều công cụ để cày bừa, diệt trừ cỏ dại ở ruộng,
loại trừ phương pháp hỏa canh, thay thế cày bừa bằng trâu bò, người ta giữ được
độ phì nhiêu trong thổ nhưỡng, cỏ được vùi trong ruộng, lại làm tăng chất hữu cơ

14


cho đất, có công cụ sắt trong tay dân có thể tiến hành khai hoang trên một diện
tích đất rộng lớn hơn trước. Đi đôi với việc phổ biến kỹ thuật cày bừa bằng trâu,
bò với việc sử dụng nông cụ sắt, công trình thủy lợi cũng được phát triển (đắp đê
ngăn mặn, phòng lụt, đào kênh dẫn thủy nhập điền). Kỹ thuật cày bừa bằng châu,
bò, việc dùng nông cụ sắt một cách phổ biến, việc phát triển các công trình thủy
lợi đê điều. Khiến cho sản xuất nông nghiệp năng suất tăng lên rõ rệt. Đầu thời
Bắc thuộc, triều Tây Hán còn phải chở lúa gạo xuống nuôi quan lại và sĩ tốt đóng
ở Giao Chỉ. Đến thời Công nguyên, số thóc thuế nhà Hán vơ vét được ở đây đã
lên tới 13.600.000 hộc tương đương khoảng 272.000 tấn thóc. Ở đây có sự tăng
cường rõ rệt áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế. Nhưng những lực lượng sản
xuất vẫn lớn lên ngay dưới điều kiện thống trị ngoại bang[50, 252-253].
Bên cạnh trồng lúa, người dân còn trồng khoai, đậu và nhiều loại cây có
củ khác. Ngoài làm ruộng người dân còn làm vườn, đối tượng của nghề làm

hình thành nên những trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa – tôn giáo, ở đồng
bằng dọc theo những con sông lớn: Long Biên trên sông Cầu và Ngũ Huyên
Khê, Luy Lâu trên sông Dâu, sông Đuống, Mê Linh trên sông Nhị, có thành và
có thị. Trung tâm chính trị, quân sự cũng dần dần trở thành trung tâm kinh tế, có
chợ, có bến, trên bến dưới thuyền hình thành nên chợ búa. Ngoài mạng lưới chợ
quê là chợ huyện, chợ quận, chợ châu. Luy Lâu, Long Biên có nhiều quan, quân
Hoa Hán, cũng có nhiều ngoại kiều tới trú ngụ, buôn bán và truyền đạo. Ngoài
người Hán còn có người Hồ (Ấn Độ, Trung Á) và các cư dân phi Hoa, phi Việt
khác, tiền đồng Trung Quốc vẫn lưu hành. Như vậy, từ đầu Công nguyên (hay
trước đó ít lâu) đã tồn tại các luồng thương mại quốc tế, bắt đầu từ hải cảng A –
lê – xăng đri tỏa sang Nam Ấn Độ, đến Miến Điện và thông với Trung Quốc.
Mặt khác họ tiếp tục vượt biển qua miền bán đảo Đông Dương mà giao thiệp
buôn bán với Nam Hoa[50, 275-260].
Việc trao đổi giữa Giao Châu với các nước cũng có tác dụng kích thích
nhất định đối với việc phát triển nền kinh tế cũng như văn hóa. Một số mặt hàng
thủ công của nước ta được xuất cảng, một số kỹ thuật của nước ngoài được nhân

16


dân ta tiếp thu. Qua trao đổi kinh tế, việc giao lưu văn hóa giữa các nước cũng
được đẩy mạnh.
Về mặt xã hội.
Từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VI, như phần trên phân tích, sức sản xuất
tại làng xã, với nhiều công cụ và dụng cụ bằng sắt, tre, gỗ, đá, tuy bị kìm hãm
nhiều song cũng dần dần phát triển. Rõ ràng sản xuất qua xã hội Giao Châu ở
thời Bắc thuộc mang tính chất hai mặt đối kháng. Mỗi bước tiến trong sự phát
triển sản xuất, mua được bằng những hy sinh đau khổ tận cùng của nhân dân lao
động. Từ thời Mã Viện, chế độ lạc tướng đã bị xóa bỏ, chính quyền đô hộ đã
nắm giữ được cấp huyện, nhưng nó vẫn không khống chế nổi cơ sở hạ tầng của

Tóm lại,từ thế kỷ thứ II một số người Việt (như Lý Tiến, Lý Cầm, Trương
Trọng …) xuất thân từ tầng lớp trên của xã hội được đi học chữ Hán, sau đó thi
đỗ và được làm quan. Nhìn chung, tầng lớp hào trưởng địa phương người Việt bị
lấn hiếp về kinh tế, chèn ép về chính trị, vì vậy họ có nhiều mâu thuẫn với bọn
quan lại và chính quyền Trung Hoa. Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của phong trào
nhân dân chống chính sách đồng hóa của kẻ xâm lược, tầng lớp hào trưởng địa
phương người Việt ngày càng có tinh thần dân tộc mạnh mẽ. Vai trò lịch sử của
họ là lãnh đạo phong trào nhân dân vùng lên quật đổ chính quyền đô hộ, giành
lại quyền độc lập tự chủ. Họ còn có vai trò chủ động tiếp biến Phật giáo thành
yếu tố có lợi cho sự nghiệp khôi phục quyền tự chủ, thừa nhận sự lựa chọn của
dân chúng với Phật giáo.
1.1.2 Điều kiện Văn hóa, tín ngưỡng
Từ trong các làng xã, người Viêt sống trong điều kiện bị Bắc thuộc vẫn có
ý thức bảo tồn và phát huy cái vốn liếng văn hóa bản địa, nội sinh tích lũy qua
hàng nghìn năm về trước. Đành rằng trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, nhân dân phải
sống cảnh “chim lồng, cá chậu” luôn bị áp đặt văn hóa ngoại lai chủ yếu mang
tính cưỡng bức. Nhưng xã hội bao giờ cũng là xã hội của nhân dân, nhân dân vẫn
sống trong một môi trường sinh thái cụ thể quen thuộc, không ngừng đấu tranh
để phát triển văn hóa tự mở lấy đường đi.

18


Trong thời kỳ Bắc thuộc, giao tiếp văn hóa Việt – Hán khi đó được diễn ra
dưới hình thức cưỡng bức. Tuy vậy, ngay dưới chế độ cưỡng bức và bóc lột thống
trị, bị trị, trên quan hệ giữa các cộng đồng tộc người, nhân dân ta phân biệt con
đường truyền bá văn hóa cưỡng bức của bọn thống trị và con đường tiếp xúc, giao
lưu văn hóa tự nguyện của nhân dân đôi bên. Đất nước ta tuy rất xa miền nội địa
Trung Quốc, nhưng từ sông Trường Giang trở về Nam, đồng bằng Nhị Hà là một
dải châu thổ rộng lớn, phì nhiêu, thu hút nhiều người phương Bắc xuống sinh

dựng và phát triển nền kinh tế và văn hóa dân tộc”[50, 269]
Từ Lạc Việt, Âu Việt đến Việt và Nam ở thế kỷ thứ VI (và tiếp tục sau
đó), trải qua nhiều thế kỷ ở nơi đây, trên đất Giao Châu này đã diễn ra quá trình
hòa trộn, dung hợp nhiều tộc người, chủ yếu là dung hợp Việt cổ - Hán về các
phương diện nhân chủng, văn hóa, xã hội. Song phương hướng chủ yếu là Việt
hóa (ngược với vùng đất Việt khác ở trên cũng có sự dung hợp Việt – Hán sang
phương hướng chủ yếu là Hán hóa). Khi kẻ địch ồ ạt kéo quân xuống xâm chiếm
đất đai, đàn áp tàn bạo nhân dân ta, đại bộ phận người Việt không rời bỏ nơi
chôn nhau, cắt rốn của mình đi di tản, trái lại vẫn kiên trì bám đất, bám làng,
bám chắc địa bàn sinh tụ của dân tộc, đấu tranh để sinh tồn phát triển.
Biểu hiện rõ rệt của sự bảo tồn giống nòi và văn hóa Việt được chống
đồng hóa là sự bảo tồn tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ, tiếng nói của dân tộc. Tiếng nói
là một thành tựu văn hóa, là một thành phần của văn hóa. Tiếng Việt thuộc nhóm
ngôn ngữ được xác lập từ xưa ở miền Đông Nam Á, điều đó chứng tỏ cái gốc
tích lâu dài, bản địa của dân tộc ta trên dải đất này. Trong thời Bắc thuộc, tiếng
Việt hấp thu nhiều yếu tố ngôn ngữ Hán, ngay cả trong vốn từ vị cơ bản và trong
các hư từ, nhưng nhân dân ta đã hấp thu ảnh hưởng Hán ngữ một cách độc đáo,
sáng tạo, Việt hóa từ ngữ ấy bằng cách dùng, cách đọc, tạo thành lớp từ mới, sau
này ta gọi là lớp từ Hán – Việt.
Từ thời Hùng Vương, đã có nền phong hóa riêng của người Việt cổ, tuy
còn giản dị, chất phác. Đến thời Bắc thuộc, bọn đô hộ gia sức đưa vào nước ta
nhiều thứ lễ giáo Trung Hoa, ở những mặt nhất định có ảnh hưởng trực tiếp đến
phong hóa Việt. Tuy nhiên, khả năng thích ứng mạnh mẽ với mọi tình thế, người

20


Việt vẫn giữ gìn được truyền thống dân gian của nền phong hóa Việt. Những mặt
lễ giáo của Trung Hoa ít nhiều tăng cường sự áp chế trong gia đình và củng cố
chế độ phụ quyền (từ đầu Công nguyên trở về trước tính chất phụ quyền trong



sâu lòng đất … Núi là biểu tượng cho sự vững chắc trường tồn, người Việt thờ
thần núi khắp nơi. Hầu như các công trình thờ phụng đều đặt trên núi, đến như
giữa Hà Nội, không có núi người ta phải đắp núi để thờ, đó là núi Nùng. Theo
quan niệm của người Việt, đá là phần cứng rắn nhất của núi, là hình núi thu nhỏ,
là nơi trú của thần linh, trở thành bùa hộ mệnh của cả cộng đồng.
Tục thờ thần sông, biển, thần nước: Nước ta là văn hóa sông nước (lục
địa) và biển cả (hải đảo). Sông, biển hùng vĩ với con người là quyền năng vô
hạn. Khi hiền hòa thì cho con người mọi thứ, nhất là nước để sống, nhưng khi
giận dữ thì thật kinh hãi; lụt lội cuốn băng những gì có trên mặt đất. Từ thờ thần
sông, biển, con người thờ thần nước để cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng
tốt tươi, con người được rửa mát, hưởng hạnh phúc. Có thể nói, thờ thần nước rất
sôi động và có mặt trong nhiều lễ hội, tập trung vào giai đoạn chuyển mùa – vào
mùa mưa và bắt đầu vào vụ sản xuất của người Việt.
Tục thờ thần cây và thần lúa.
Có hai loại cây, con người thờ; cây tự nhiên và cây trồng lấy lương thực.
Những cây tự nhiên thường là những cây cổ thụ tượng trưng cho sự trường tồn,
đó là cây đa, cây si, cây đề,… chúng được trồng ở nơi thờ tự của cộng đồng.
Người Việt thường để bát hương, bình vôi ở gốc cây. Loại cây được thờ tự là
những loại cây lương thực chủ yếu do con người sáng tạo, thuần hóa. Người ta
thần thánh hóa những thành quả sản xuất của người Việt.
Nghi lễ phồn thực và tục thờ sinh thực khí: Tín ngưỡng phồn thực là
chung của cư dân nông nghiệp, nó được thể hiện phong phú và rất sớm trong đời
sống xã hội người Việt. Tư duy âm – dương tương hợp được hình thành trước sự
sinh sôi nảy nở của con người và muôn vật thông qua sự giao phối đực - cái, đàn
ông - đàn bàn. Đặc biệt, là ma lực kích động hấp dẫn của tình dục, con người đã
thần thánh hóa ma lực và thờ phụng để cầu xin sự sinh sôi nảy nở và liên tưởng
đến sức mạnh sinh sản của đất đai, sự giao hòa giữa trời (dương) và đất (âm) sẽ
mang lại sức sống, sự sinh sôi nảy nở. Người ta thờ sinh thực khí (Yoni – linga),


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status