DSpace at VNU: Cấm kỵ và đối phó với cấm kỵ nhìn từ góc độ văn hóa (Khảo sát qua thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương) - Pdf 47

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC

TRẦN THỊ HƢƠNG

CẤM KỴ VÀ ĐỐI PHÓ VỚI CẤM KỴ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HOÁ
(KHẢO SÁT QUA THƠ NÔM TRUYỀN TỤNG CỦA HỒ XUÂN HƢƠNG)

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Ngành: Văn học, khoá 2004 – 2007
Người hướng dẫn: PGS.TS. TRẦN NHO THÌN
Học viên thực hiện: TRẦN THỊ HƢƠNG

Hà nội - 2008

1


ĐẶT VẤN ĐỀ

Lịch sử nghiên cứu tiểu sử, văn bản thơ Hồ Xuân Hương
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Nhƣ chúng ta đã biết xã hội phong kiến Việt Nam lấy Nho giáo làm ý
thức hệ chính thống. Văn hóa vốn có đặc điểm khắc phục cái bản năng. Nhƣng
con ngƣời lý tƣởng của Nho gia là nội thánh ngoại vương, tu kỷ trị nhân. Văn
hoá Nho giáo không chỉ khắc phục mà còn áp chế, kiểm soát đời sống bản năng,
nhất là bản năng tình dục nên đề tài tình dục là hầu nhƣ là mảnh đất cấm kỵ đối
với văn học nhà Nho. Nói đến quan hệ tính giao, nói đến quan hệ tình ái nam nữ
trong văn chƣơng là một điều cần né tránh. Tất nhiên, không có đạo luật chính

dùng lối viết dung tục, dùng cái tục để chế giễu đạo đức phong kiến, hiền nhân
quân tử, hạ bệ giải thiêng. Gần đây, trong bối cảnh đổi mới nghiên cứu văn học,
Đỗ Đức Hiểu cho rằng đó là ca ngợi sự tự nhiên và Đỗ Lai Thuý lại nghĩ đó là
tín ngƣỡng phồn thực, không có dâm tục… Chúng tôi nhìn nhận những bài thơ
gọi là “dâm”, “tục” ấy dƣới một góc độ khác, đặt chúng vào hệ thống các đối
phó với cấm kỵ trong văn hoá truyền thống.
Trong xã hội chuyên chế phƣơng Đông, để duy trì quyền uy của giai cấp
thống trị, có nhiều hình thức cấm kỵ khác nhau. Cấm kỵ dễ thấy nhất là quy định
kiêng húy. Hình thức kiêng húy buộc ngƣời ta phải viết chữ Hán thiếu nét hoặc
có ký hiệu nhƣ dấu nháy và đọc chệch để tỏ rõ có ý thức tôn trọng chữ húy.
Trong văn hóa dân gian, để đối phó với những cấm đoán khắt khe áp đặt cho
quan hệ nam nữ, ngƣời xƣa đã che dấu cho quan hệ tự do của nam nữ bằng
những kiểu không gian lễ hội khác nhau (không gian đêm rã đám làng La, hang
động tối tăm); để đối phó với can thiệp của triều đình phong kiến Nho giáo hóa
muốn cấm làng xã thờ các loại “dâm thần” vốn là “hèm” của làng xã, ngƣời dân
đã đối phó bằng các hình thức che giấu khác nhau nhƣ hành lễ vào đêm khuya,
nhƣ bịa ra các thần phả đáp ứng đúng yêu cầu triều đình.
Luận văn này đặt những bài thơ Nôm đề vịnh của Hồ Xuân Hƣơng vào
ngữ cảnh cấm kỵ và đối phó với cấm kỵ trong xã hội chuyên chế phƣơng Đông
nhƣ thế.

3


Tất nhiên, là một kiểu nghệ thuật ngôn từ, thơ đề vịnh của Hồ Xuân
Hƣơng có phƣơng cách đối phó với cấm kỵ riêng của nó. Nếu trong văn chƣơng
chính thống của Nho gia, việc miêu tả các cơ quan sinh dục hay quan hệ tính
giao bị xem là cấm kỵ, cần né tránh thì Hồ Xuân Hƣơng đã trực diện đƣơng đầu
với các cấm kỵ đó. Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hƣơng là sản phẩm đặc biệt
của văn chƣơng trung đại; khi mà các vấn đề của đời sống bản năng bị xem là

nhƣ: Mai Sơn Phủ, Tốn Phong Thị, Cƣ Đình, Thạch Đình, Chí Hiên, Thanh
Hiên, Hiệp trấn Sơn Nam thƣợng Trần Ngọc Quán, Hiệp trấn Sơn Nam hạ Trần
Quang Tĩnh, Hiệp trấn Trần hầu Trần Phúc Hiển… và họ đều in dấu ấn trong
các bài thơ đối đáp, xƣớng hoạ với chủ nhân “Cổ Nguyệt Đƣờng”. Đặc biệt phải
kể đến ông Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu, ngƣời Tiên Điền, (có ngƣời đoán là
nhà thơ Nguyễn Du) từng là “ngƣời xƣa” của Hồ Xuân Hƣơng. Chƣa kể Chiêu
Hổ (nhƣng khó có thể là Phạm Đình Hổ, tác giả Vũ trung tuỳ bút và Đông Dã
học ngôn thi tập) là bạn trai tri ân cùng ngƣời Cổ Nguyệt đối đáp, để lại nhiều
tứ thơ.
Đƣờng chồng con của nữ sĩ đa tài này thật trắc trở, truân chuyên. Tình
duyên hẩm hiu, muộn mằn, đến khi lấy chồng thì “cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm”,
hai lần lấy chồng nhƣng đều lỡ dở. Hồ Xuân Hƣơng lấy Trần Phúc Hiển đã phải
cảnh vợ lẽ và tiếng thơ khóc chồng của ngƣời phụ nữ bạc mệnh vang lên văng
vẳng “Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!”. Tiếp đến, bà lại làm lẽ tổng Cóc rồi
cũng phải khóc chồng: “Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!”.
Điều chúng tôi muốn nói thêm về cuộc đời của nữ sĩ là ý kiến của Đào
Thái Tôn trong bài viết: Phải chăng Hồ Xuân Hương trong Xuân Đường đàm
thoại là một kĩ nữ?. Tác giả chỉ đƣa ra ý kiến tham khảo chứ không khẳng định
Hồ Xuân Hƣơng là một kĩ nữ. Nàng xuất hiện trong Xuân Đường đàm thoại là
một tài nữ thông thạo “nào đàn, nào cờ, nào rượu, nào thơ” và cuộc đời riêng
chung có thể viết thành một thiên “phong tình tân lục”. Ngƣời tài nữ chẳng thể
giữ nổi tấm thân trinh bạch trong môi trƣờng mà mình luôn phải làm kẻ mua
vui, nên phải làm cái việc “cởi đai ngọc, nâng chén vàng”. Hơn nữa, loạt từ “bạc
mệnh”, “phù hoa”, “yêu hoa”, “tài hoa”, “tình lang”, “tình khách”… trong tác
phẩm trên đều dùng để miêu tả về Hồ Xuân Hƣơng, loại từ ngữ này thƣờng
5


dùng chỉ ngƣời ca kỹ. Xuân Đường đàm thoại còn trích dẫn câu thơ trong Ca
trù để ca vịnh kĩ nữ:“Nhi nữ hữu duyên lân bạc phận/Anh hùng vô lệ diệc tâm

giữ đƣợc “lòng son”, không bị vẩn đục. Tóm lại, “đó là những dấu hiệu không
bình thường so với người phụ nữ theo tiêu chí Nho giáo, nhưng lại rất tiêu biểu
cho một kĩ nữ ả đào” [106, 298].
III. VĂN BẢN THƠ HỒ XUÂN HƢƠNG
1. VĂN BẢN THƠ CHỮ NÔM
Hiện có trên 100 văn bản chép thơ Nôm của Hồ Xuân Hƣơng, bao gồm
các bản chép tay, khắc ván chữ Nôm và các bản in chữ quốc ngữ. Trong đó,
đáng chú ý nhất là những văn bản: Âm ca tập, Bách liêu thi tập, Bảo hán châu
liên, Đào Nương thi hiếu ca, Đăng Khoa lục sưu giảng, Kỳ quan thi, Liệt
truyện thi ngâm, Tạp thảo tập, Lĩnh Nam quần hiền văn thi diễn âm tập,
Nam âm thảo, Quốc âm thi tuyển, Quốc văn tùng ký, Song thất lục bát quốc
âm ca, Thi ca đối liễn tạp lục, Thi ca quốc âm tạp lục, Thi từ ca đối sách, Liên
Hương thi sao, Việt Tuý tham khảo, Quế Sơn Tam nguyên thi tập (văn bản
chép tay); Quốc âm thi tuyển, Xuân Hương thi tập - 1921, Xuân Hương thi
tập - 1992 (văn bản khắc ván chữ Nôm); Hồ Xuân Hương thi tập (văn bản in
chữ Quốc ngữ). Có nhiều ý kiến khác nhau về thời gian ra đời của các văn bản
trên, trong đó Kiều Thu Hoạch cho rằng, tính đến nay, văn bản Quốc văn tùng
ký đƣợc xem là xuất hiện sớm nhất.
Về số lƣợng văn bản thơ Nôm Hồ Xuân Hƣơng cũng có một số ý kiến
khác nhau. Đào Thái Tôn cho rằng thơ truyền tụng của bà có 139 bài. Trần
Thanh Mại công nhận thơ của nữ sĩ có quãng 40 bài. Đỗ Lai Thuý dựa chủ yếu
dựa vào hai cuốn Thơ Hồ Xuân Hương của Nguyễn Lộc và L’oeuvres de la
poétesse vietnamienne của M. Durand chọn lựa đƣợc 50 bài thơ. Kiều Thu
Hoạch dựa trên 3 tiêu chí: phải là thơ đƣợc in hoặc chép tay bằng chữ Nôm; nội
dung hoặc phản ánh tâm trạng của ngƣời phụ nữ về số phận long đong, về tình
duyên lỡ làng hoặc châm biếm, trào tiếu những hiện tƣợng không bình thƣờng
của xã hội và tự nhiên - trữ tính chứ không phải là thứ trào phúng tục nhảm;
hình thức thƣờng sử sụng lối nói lấp lửng (ambivalent), hoặc dùng lối nói song
quan ngữ (mot équivoque), hoặc sử các biểu tƣợng hai mặt (symbole équivoque)
7

1

Ngắm Tây Hồ nhớ bạn

X

2

Hồ Trúc Bạch

X

Vịnh Thăng Long hoài

X

3

cổ

4

Chơi Khán Đài

5

Tức cảnh sông Nhĩ Hà

X


X

X

10

Lấy chồng chung

Làm lẽ

X

X

Không chồng mà chửa

Không chồng mà X

X

11
12

X

X
X

chửa
Thương thay phận gái

9.
Câu đố Việt Nam, Nxb Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, 2003.
10.
Nguyễn Đức Bính, Người cổ nguyệt, chuyện Xuân Hương, Tạp chí Văn
Nghệ, tháng 10/1962.
11.
Phạm Tú Châu, Vài suy nghĩ về tiểu thuyết tình dục chữ Hán của Việt
Nam, Tạp chí Hán Nôm, số 3/1999.
12.
Nguyễn Huệ Chi, Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam thời kỳ cổ - cận đại, Nxb
Tác Phẩm Mới, Hà Nội, 1983.
13.
Nguyễn Huệ Chi, Mấy vấn đề phân kỳ văn học sử Việt Nam, Tạp chí
Văn học, số 3/1985.
14.
Nguyễn Đình Chú, Vấn đề “ngã” và “phi ngã” trong văn học Việt Nam
trung - cận đại, Tạp chí Văn học, số 5/1995.
15.
Mai Ngọc Chú, Thần nữ và liệt nữ Việt Nam, Nxb Văn Hoá Thông Tin,
Hà Nội, 2005.
16.
Phan Dan, Chuyện cái dâm trong văn chương, (Trả lời bài Phỏng vấn
Hồ Xuân Hương của Phạm Thị Hoài).
17.
Nguyễn Duy Diễn, Luận về Hồ Xuân Hương, Nxb Thăng Long, Sài
Gòn, 1956.

9



Trung Quốc, Nxb Khoa Học Xã Hội, 1993.
29.
Konrat, Phương Đông và Phương Tây, Trịnh Bá Đĩnh dịch, Nxb Giáo
Dục, Hà Nội, 1997.
30.
Siêu Hải, Về mối quan hệ giữa Hồ Xuân Hương và Phạm Đình Hổ,
Tạp chí Văn học, số 5/1991.
31.
Hoàng Xuân Hãn, Hồ Xuân Hương với vịnh Hạ Long, Tập san Khoa
học xã hội, số 10-11/1983.
32.
Hoàng Xuân Hãn, Hồ Xuân Hương – Thiên tình sử, Nxb Văn Học, Hà
Nội 1995.
33.
Nguyễn Văn Hanh, Hồ Xuân Hương, Tác phẩm, thân thế và văn tài, in
lần thứ hai, Nxb Aspas, Sài Gòn, 1957.
34.
Lý Trạch Hậu, Bốn bài giảng mỹ học, Trần Đình Sử, Lê Tẩm dịch, Nxb
Đại Học Quốc Gia, Hà Nội, 1999.
35.
Đỗ Đức Hiểu, Thế giới thơ Nôm Hồ Xuân Hương, Tạp chí Văn học, số
5/1990.
36.
Đỗ Đức Hiểu, “Mời Trầu” giữa lễ hội dân gian, Báo Văn nghệ, số 34,
ngày 30 /8 /1994.
10


37.
Nguyễn Duy Hinh, Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb Hội Nhà Văn,

M.B. Khrapchenko, Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người, hai tập,
Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1985.
49.
Trần Khuê, Hào hoa và ngạo nghễ một Hồ Xuân Hương trác tuyệt,
Nghiên cứu và tranh luận, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1996.
50.
Đặng Thanh Lê - Nguyễn Đức Dũng, Góp thêm một tiếng nói trong việc
đánh giá thơ Hồ Xuân Hương, Tạp chí Văn học, số 3/1976.
51.
Đặng Thanh Lê, Hồ Xuân Hương - Bài thơ “Mời trầu”, cộng đồng
truyền thống và cá tính sáng tạo trong mối quan hệ văn học dân gian - văn
học viết, Tạp chí Văn học, số 5/1983.
52.
Đặng Thanh Lê, Phạm Luận, Hoàng Hữu Yên: Văn học Việt Nam nửa
cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1991.
53.
I. Li-xê-vích, Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc, Nxb Giáo Dục, Hà Nội,
1994.
54.
Nguyễn Lộc, Hoàng Hữu Yên, Văn học Việt Nam thế kỷ XVII - nửa đầu
thế kỷ XIX, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1962.

11


55.
Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ
XIX, Tái bản lần thứ ba, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1999.
56.
Phƣơng Lựu, Lê Bá Hán, Cơ sở lý luận văn học, 3 tập, Nxb Đại Học &

67.
Nguyễn Thị Ngọc, Hồ Xuân Hương và nền văn hoá dân gian Việt
Nam, Luận án Phó tiến sĩ Ngữ Văn, 2004.
68.
Nguyễn Nghiệp, Trƣơng Quang Kiển, Thử tìm hiểu ý thức chủ đạo
trong thơ Hồ Xuân Hương, Nghiên cứu Văn học, số 9/1961.
69.
Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức, Thơ ca Việt Nam: Hình thức và thể
loại, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1968.
70.
Nguyễn Tôn Nhan (biên dịch và chú giải), Kinh lễ, Nxb Văn Học, Hà
Nội, 1999.
71.
Vƣơng Trí Nhàn, Hồ Xuân Hương với Rabơle Vilông và Đôtxtôiépki,
Tạp chí Văn học, số 1/1985.
72.
Nhiều tác giả, Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 1962.
73.
Nhiều tác giả, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1996.
12


74.
Nhiều tác giả, Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nxb
Giáo Dục, 1997.
75.
N.I. Niculin, Văn học Việt Nam sơ khảo, Lê Xuân Vĩnh dịch, Tƣ liệu
thƣ viện Viện Văn Học, 1968.
76.

87.
Trần Đình Sử, Thời trung đại, cái tôi trong các học thuyết, trong đời
sống và trong văn học, Tạp chí Văn học, số 7/1995.
88.
Trần Đình Sử, Mấy vấn đề thi pháp trong văn học trung đại Việt Nam,
Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1999.
89.
Vũ Minh Tâm, Mỹ học Mác - Lênin, Nxb Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội, Hà
Nội, 1991.
90.
Văn Tân, Hồ Xuân Hương với các giới phụ nữ, văn học và giáo dục,
Nxb Sông Lô, in lần thứ hai, Hà Nội, 1957.
91.
Bùi Duy Tân, Văn học chữ Nôm: tinh hoa sáng tạo của văn học cổ điển
Việt Nam thời trung đại, Tạp chí Văn học, số 8/1998.
92.
Bùi Duy Tân, Khảo và luận một số tác gia, tác phẩm văn học trung đại
Việt Nam, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1999.
13


93.
Trƣơng Xuân Tiếu, Tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ Nôm truyền tụng
Hồ Xuân Hương, Nxb Văn Học, Hà Nội, 2004.
94.
E.Đ. Tylor, Văn hoá nguyên thuỷ, Huyền Giang dịch, Nxb Văn Hoá
Nghệ Thuật, Hà Nội, 2000.
95.
Trần Thị Băng Thanh, Những suy nghĩ từ văn học trung đại, Nxb Khoa
Học Xã Hội, Hà Nội, 1999.

109. Thơ Hồ Xuân Hương, (Nguyễn Lộc tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Giáo
Dục, Hà Nội, 1982.
110. Thơ Hồ Xuân Hương, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1987.
112. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Văn Học, Hà Nội, 1983.
14


113. Nguyễn Bách Khoa, Kinh thi Việt Nam, Nxb Văn Hoá Thông Tin, Hà
Nội, 2000.
114. Thơ văn Nguyễn Khuyến, Nxb Văn Học, Hà Nội, 1979.
115. Thơ văn Trần Tế Xương, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1984.
116. Nguyễn Đăng Thục, Thiền học Việt Nam, Nxb Thuận Hoá, Huế, 1997.
117. Đỗ Lai Thuý, Tiếp cận Hồ Xuân Hương từ “nguyên lý hội hoá trang”
của M. Bakhtin, Tạp chí Văn hoá Dân gian, số 2/1985.
118. Đỗ Lai Thuý, Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực, Nxb Văn Hoá
Thông Tin, Hà Nội, 1999.
119. Timôphêép, Nguyên lý lí luận văn học, 2 tập, Nxb Văn Hoá, Hà Nội,
1962.
120. Đào Thái Tôn, Hồ Xuân Hương có họ hàng gì với Nguyễn Huệ không?
Tạp chí Văn học, số 4/1971.
121. Đào Thái Tôn, Về bài thơ “Đánh đu” được xem là của Hồ Xuân Hương,
Báo Văn Nghệ, số 25/1978.
122. Đào Thái Tôn, Từ cội nguồn vào thế tục, Nxb Văn Học, Hà Nội, 1993.
123. Đào Thái Tôn, Hồ Xuân Hương, tiểu sử, văn bản, tiến trình huyền thoại
dân gian hoá, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội, 1999.
124. Hoàng Ngọc Tuấn, Văn học hiện đại và hậu hiện đại qua thực tiễn sáng
tác và góc nhìn lý thuyết, Nxb Văn Nghệ, Hà Nội, 2002.
125. Trƣơng Tửu, Kinh thi Việt Nam, Nxb Hàn Thuyên, Hà Nội, 1940.
126. Tranh dân gian Việt Nam, Nxb Văn Hoá Dân Tộc, Hà Nội, 1996.
127. Hoàng Trinh, Bàn về chủ nghĩa tự nhiên trong văn học, Tạp chí Văn học,

1997.
144. Trần Quốc Vƣợng, Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn Học,
Hà Nội, 2003.

16




Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status