Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam - Pdf 49

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ THỊ THÚY HÀ

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ,
TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
ĐỂ XÂY DỰNG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ THỊ THÚY HÀ

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ,
TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
ĐỂ XÂY DỰNG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số
: 838.01.07


PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT ĐỂ XÂY DỰNG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TẠI TỈNH
QUẢNG NAM .........................................................................................................25
2.1. Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ...25
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp tại tỉnh Quảng Nam. ...............................40
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ
TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ĐỂ XÂY DỰNG CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM........................56
3.1. Định hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất .......................................................................................56
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ................................................58
KẾT LUẬN ..............................................................................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BT

: Bồi thường

CNH - HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

GCNQSDĐ


SDĐ

: Sử dụng đất

TĐC

: Tái định cư

THĐ

: Thu hồi đất

UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là nền tảng cho mọi quá
trình sản xuất hoạt động thông qua đó thúc đẩy quá trình phát triển KT-XH của đất
nước. Trong quá trình sản xuất, đất đai là nhân tố hàng đầu không thể thiếu của các
ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, đất đai còn là cơ sở để các ngành, các
lĩnh vực hoạt động có hiệu quả.
Trong tình hình đất nước ta hiện nay, khi chấp nhận nền kinh tế thị trường và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng

chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do đó, học viên chọn đề tài: “Pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng các khu công
nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” để nghiên cứu tìm hiểu trong khuôn khổ luận
văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây
dựng các khu công nghiệp là một trong những chế định quan trọng của pháp luật đất
đai. Chế định này khi đi vào cuộc sống đã trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc sống của
người dân, cộng đồng dân cư nơi có đất bị thu hồi và lợi ích của nhà đầu tư nên thời
gian qua đã có rất nhiều sách báo, công trình nghiên cứu về lĩnh vực này dưới góc độ
lý luận và thực tiễn, tiêu biểu là các công trình nghiêu cứu của các tác giả như:
Tác giả Lê Hải Yến (2010) với đề tài: “Pháp luật về bồi thường khi nhà nước
thu hồi đất qua thực tiễn áp dụng tại địa bàn Quận Tây Hồ, Thành phố Hà Nội”.
Nghiên cứu này tập trung vào phân tích áp dụng Luật trong thực tiễn quận Tây Hồ
trong giai đoạn đô thị hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội và vẫn còn bỏ ngỏ những
mảng trống trong nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong tái định cư đảm bảo nhà ở
cho dân như thế nào.
Tác giả Hoàng Thị Thu Trang (2012) với đề tài: “Pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và thực tiễn áp
dụng tại Nghệ An”;
Tác giả Đỗ Phương Linh (2012) với đề tài: "Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư
người có đất bị thu hồi trong giải phóng mặt bằng - thực trạng và giải pháp hoàn thiện";

2


Tác giả Trần Phương Liên (2013) với đề tài: “Pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ đối với hộ gia đình, cá nhân khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp - Thực trạng
và hướng hoàn thiện";
Tác giả Phạm Thu Thủy (2014) với đề tài: “Pháp luật về bồi thường khi nhà

tỉnh Quảng Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng các khu công
nghiệp. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây
dựng các khu công nghiệp.
- Tìm hiểu và đánh giá hiệu quả công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam trong những năm qua.
- Phân tích ảnh hưởng của việc thực hiện các chính sách trong công tác
GPMB của dự án đến đời sống của người dân bị thu hồi đất.
- Đề xuất các giải pháp khắc phục những khó khăn, yếu kém nhằm đẩy nhanh
tiến độ GPMB để thực hiện các công trình, dự án phù hợp với tốc độ phát triển KT-XH
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, Luận văn xác định những nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phân tích khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp; khái niệm, đặc điểm và
yêu cầu của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để
xây dựng các khu công nghiệp.
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận, làm rõ khái niệm, đặc điểm, các yếu tố
chi phối pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây
dựng các khu công nghiệp, lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật cũng như
cơ cấu pháp luật điều chỉnh về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất để xây dựng các khu công nghiệp ở Việt Nam.

4

không ngừng và trong mối quan hệ tổng thể tác động qua lại giữa hiện tượng nghiên

5


cứu với các hiện tượng khác, đồng thời các hiện tượng nghiên cứu luôn được xem xét
trong quá trình từ hình thành đến phát triển qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Bên
cạnh đó, tôi cũng dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Cùng với những phương pháp trên, học viên đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: Thông tin thứ cấp được thu thập
chủ yếu là các quy định của cơ quan nhà nước ở tỉnh Quảng Nam và các cơ quan
liên ngành về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng
các khu công nghiệp. Nguồn thông tin này được thu thập chủ yếu qua báo cáo, văn
bản chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh Quảng Nam, các cơ quan liên ngành và
thông qua các công trình, bài viết, tạp chí, internet… để lấy thông tin, số liệu liên
quan đến thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp tại tỉnh Quảng Nam.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích: được sử dụng để tổng hợp và phân tích
các quy định của pháp luật về bồi thường (BT) khi nhà nước thu hồi đất (NNTHĐ),
cũng như các thông tin về thực tiễn áp dụng. Phương pháp này còn được sử dụng để
nhận xét, đánh giá trong luận văn.
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng nhằm xử lý các tài
liệu, các số liệu mà tôi thu thập từ thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp. Qua đó, tác
giả có được các số liệu, thông tin tin cậy trình bày trong luận văn.
Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các phương pháp: diễn dịch, quy nạp, so



CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ,
TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ĐỂ XÂY DỰNG
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất
1.1.1.1. Thu hồi đất
Thu hồi đất là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp
luật đất đai. Nếu như giao đất, cho thuê đất là cơ sở để làm phát sinh quan hệ pháp
luật đất đai, phát sinh quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử
dụng, thì thu hồi đất là một biện pháp làm chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai bằng
một quyết định hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Thông qua những
hoạt động này, Nhà nước thể hiện rất rõ quyền định đoạt đất đai, với tư cách là đại
diện chủ sở hữu đối với đất đai.
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng "Thu hồi: Lấy lại cái đã đưa ra, đã cấp
phát ra hoặc bị người khác lấy" [32, tr.759].
Theo từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, thu hồi đất được hiểu là: "Cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thu hồi quyền sử dụng đất của người vi phạm quy định về
sử dụng đất để Nhà nước giao cho người khác sử dụng hoặc trả lại cho chủ sử dụng
đất hợp pháp bị lấn chiếm. Trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử
dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng" [21]. Khái niệm này thực ra cũng chưa hẳn là một định
nghĩa rõ ràng về thu hồi đất, mặc dù có đề cập các trường hợp thu hồi đất của Nhà
nước nhưng nội hàm của khái niệm này chưa bao quát hết các trường hợp thu hồi đất
của Nhà nước. Nhà nước không chỉ thu hồi đất của người có hành vi vi phạm về sử
dụng đất hay thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích


quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất [9]. Có 2
loại bồi thường: Bồi thường về đất và bồi thường về tài sản.

9


Bồi thường về đất là bồi thường đối với toàn bộ diện tích đất Nhà nước thu hồi
theo nguyên tắc diện tích đất bị thu hồi bao nhiêu thì bồi thường bấy nhiêu. Diện
tích đất bồi thường là diện tích đất hợp pháp được xác định lại trên thực địa - thực tế
đo đạc diện tích thu hồi của từng chủ sử dụng đất.
Bồi thường về tài sản hiện có gắn liền với đất và các chi phí đầu tư vào đất
bị Nhà nước thu hồi gồm: Nhà, các công trình, vật kiến trúc, cây cối hoa màu,
mồ mã, công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật gắn liền với đất đai bị thu hồi.
1.1.1.3. Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất
thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa
điểm mới [9].
Các loại hỗ trợ bao gồm: hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ tái định cư đối với trường
hợp thu hồi đất ở, hỗ trợ ổn định cuộc sống và sản xuất, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi
nghề và tạo việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp; hỗ trợ khi thu hồi
đất nông nghiệp trong khu dân cư, đất vườn, ao không được công nhận là đất ở [3].
1.1.1.4. Tái định cư
Tái định cư là quá trình thiết lập lại cuộc sống cho người bị thu hồi đất phải di
chuyển chỗ ở đến nơi ở mới ổn định cả về mặt vật chất lẫn tinh thần.
Khu TĐC là địa bàn được quy hoạch để bố trí các điểm TĐC, hệ thống cơ sở
hạ tầng, công trình công cộng và khu vực sản xuất. Trong khu TĐC có ít nhất một
điểm TĐC [12].
Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định của pháp luật mà phải
di chuyển chỗ ở thì được bố trí TĐC bằng một trong các hình thức sau:
+ Bồi thường bằng nhà ở.

ngang giá và sát với giá thị trường về những thiệt hại hữu hình và vô hình phát sinh
trực tiếp từ hoạt động THĐ. Với hỗ trợ lại khác, đây là một giải pháp nằm trong BT,
nó đóng vai trò bù đắp vào khoảng trống mà các quy định về BT còn thiếu, chưa
hoàn thiện và không vươn tới được chức năng của BT. Nhà nước quy định và thực
hiện các chính sách hỗ trợ nhằm mục đích giúp cho người bị THĐ nhanh chóng ổn
định sản xuất, khôi phục, cải thiện và nâng cao mức sống. Còn TĐC chính là việc
Nhà nước BT về đất, các tài sản gắn liền với đất và các chi phí di chuyển, ổn định
cuộc sống của người bị THĐ trong trường hợp phải di chuyển chỗ ở, do đó TĐC
giữ vai trò là yếu tố bổ trợ giúp các quy định về BT được áp dụng triệt để và có tính
khả thi cao trong thực tiễn [49, tr. 39].

11


1.1.3. Ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất để xây dựng các khu công nghiệp
Để sử dụng hợp lý và có hiệu quả tài nguyên đất đai, nhất là trong giai đoạn
thực hiện CNH - HĐH, tốc độ đô thị hóa nhanh đã gây áp lực rất lớn cho việc SDĐ.
Điều này đòi hỏi việc phân bổ quỹ đất quốc gia nói chung và ở mỗi địa phương nói
riêng phải chi tiết, mang tính khoa học và có tầm nhìn chiến lược. Để hoàn thành
mục tiêu này, không thể tránh khỏi việc NNTHĐ của các chủ thể đang sử dụng. Do
đó, việc BT, HT, TĐC khi NNTHĐ đóng vai trò hết sức quan trọng được thể hiện
trên các phương diện sau đây:
Thứ nhất, đảm bảo chia sẻ về mặt lợi ích và bù đắp những thiệt hại để người bị
THĐ sớm ổn định đời sống, sản xuất, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người bị
THĐ. Trên cơ sở đó, góp phần duy trì và ổn định về chính trị, trật tự an toàn xã hội,
cũng như tạo ra động lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước [71, tr.20].
Thứ hai, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, ý nghĩa cũng như tính chất
phức tạp của việc BT, HT, TĐC khi NNTHĐ của các nhà quản lý, của chính quyền
địa phương. Trong quá trình thực hiện việc BT, GPMB, các cơ quan và cán bộ có

để giải quyết những vấn đề phát sinh khi NNTHĐ. Nghiên cứu, tìm hiểu nội dung
các quy định này, có thể thấy pháp luật về BT, HT, TĐC khi NNTHĐ là một chế
định quan trọng của pháp luật đất đai Việt Nam và được hiểu về mặt lý luận như
sau: “Pháp luật về BT, HT,TĐC khi NNTHĐ là tổng hợp các quy phạm pháp luật
do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
BT, HT, TĐC khi NNTHĐ, nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích
của chủ đầu tư và của người bị THĐ” [49, tr.46].
1.1.4.1. Đặc điểm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất
Pháp luật về BT, HT, TĐC khi NNTHĐ mang một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, pháp luật về BT, HT, TĐC khi NNTHĐ chịu sự ảnh hưởng và chi
phối bởi hình thức sở hữu toàn dân về đất đai, điều này được minh chứng ở hai khía
cạnh sau:
Một là: Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai nên Nhà
nước có quyền phân bổ và điều chỉnh đất đai cho các mục tiêu phát triển KT - XH.
Trên cơ sở đó, Nhà nước có quyền THĐ của người này để chuyển giao cho người

13


khác. Vì vậy, pháp luật về BT, HT, TĐC khi NNTHĐ quy định quyền của Nhà
nước trong việc ra quyết định THĐ trong những trường hợp cần thiết do nhu cầu
của Nhà nước và xã hội ngay cả khi người sử dụng đất đang khai thác, sử dụng.
Hai là, để tránh sự lạm quyền, độc quyền, tùy tiện trong thu hồi và BT, HT,
TĐC khi thu hồi đất, pháp luật về BT, HT, TĐC phải quy định rõ và chặt chẽ về căn
cứ thu hồi đất, các nguyên tắc, điều kiện, nội dung và trình tự thủ tục thực hiện việc
BT, HT, TĐC chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm pháp luật khi NNTHĐ.
Thứ hai, cơ sở để BT, HT, TĐC không chỉ dựa trên những thiệt hại vật chất
thực tế mà còn phải tính đến những tổn hại phi vật chất ở thời điểm thu hồi và trong
tương lai mà người dân phải đối mặt khi NNTHĐ. Bởi lẽ, đối tượng bị THĐ sẽ chịu

Thứ nhất, thiệt hại về công sức đầu tư mà người bị THĐ bỏ ra để làm tăng giá
trị quyền SDĐ. Không những thế, đây còn là thiệt hại về quyền khai thác và hưởng
các lợi ích từ diện tích đất đai do bị Nhà nước thu hồi.
Thứ hai, thiệt hại về tài sản là thành quả lao động và kết quả đầu tư của người
bị THĐ được tạo ra trong quá trình SDĐ, gồm: nhà cửa, các công trình kiến trúc,
cây trồng và các tài sản khác gắn liền với đất.
Thứ ba, thiệt hại về chi phí đầu tư vào đất mà đến thời điểm NNTHĐ còn chưa
thu hồi được. Chi phí đầu tư vào đất còn lại được xác định bằng tổng chi phí hợp lý
tính thành tiền đầu tư vào đất trừ đi số tiền tương ứng với thời gian đã SDĐ. Các
khoản chi phí đầu tư vào đất còn lại gồm: tiền SDĐ của thời hạn chưa SDĐ trong
trường hợp giao đất có thời hạn, tiền thuê đất đã nộp trước cho thời hạn chưa SDĐ
(có chứng từ hóa đơn nộp tiền), chi phí san lấp mặt bằng, tôn tạo đất theo hiện trạng
khi được giao, được thuê, phù hợp với mục đích SDĐ và các chi phí khác có liên
quan.
Thứ tư, thiệt hại do ngừng việc, ngừng sản xuất kinh doanh khi NNTHĐ người
SDĐ bị mất việc làm hoặc bị ngưng trệ quá trình sản xuất kinh doanh.
Thứ năm, các thiệt hại vô hình mà người bị THĐ phải gánh chịu như: chỗ ở
mới xa hơn, xa trường học và bệnh viện, chi phí sinh hoạt trong thời gian học nghề,
thời gian và chi phí để chuyển hộ khẩu về nơi ở mới, thời gian xin chuyển trường
học cho con cái,… Các thiệt hại này, từ trước đến nay chưa được xem xét và định
giá để làm căn cứ BT, HT, TĐC. Tuy nhiên, Nhà nước cũng chỉ nên đặt ra các tiêu
chí và phương pháp để xác định giá trị của các thiệt hại vô hình, chứ không nên đưa

15


ra một con số cụ thể. Chính người bị THĐ sẽ là người trực tiếp tính toán những
thiệt hại vô hình của họ, sau đó những giá trị vô hình mà người bị THĐ đã tính toán
cần được thẩm định lại một cách khách quan, toàn diện bởi một cơ quan thẩm định
độc lập.

KT - XH đã làm tăng giá trị quyền SDĐ của các chủ thể này. Hơn nữa, hiện nay
Nhà nước vẫn chưa có cơ chế nhằm điều tiết một phần giá trị tăng thêm từ đất mà
không phải do người SDĐ đầu tư mang lại, do đó đã tạo ra sự bất bình đẳng giữa
các chủ thể sử dụng đất với nhau và hiển nhiên về phần Nhà nước cũng mất đi một
nguồn thu đáng kể cho ngân sách.
Về phía người bị THĐ: cần nhận thức đầy đủ về lợi ích chung mang lại cho
cộng đồng từ việc THĐ của Nhà nước, do đó khi Nhà nước đã thực hiện BT, HT và
TĐC theo đúng quy định của pháp luật thì họ phải có trách nhiệm bàn giao mặt
bằng đúng thời hạn. Song, thực tế vẫn còn tồn tại nhiều trường hợp người bị THĐ
được BT với mức giá thỏa đáng, nhưng họ vẫn cố tình chậm bàn giao mặt bằng với
suy nghĩ chay ì kéo dài sẽ được nhận mức giá BT cao hơn. Vấn đề này xảy ra một
mặt dẫn đến tình trạng khiếu nại kéo dài, vượt cấp, mặt khác kéo dài thời gian
GPMB làm chậm tiến độ triển khai thực hiện dự án, gây lãng phí, thất thoát rất lớn
cho Nhà nước, NĐT và cho xã hội. Như vậy, lợi ích của các chủ thể nêu trên không
phải lúc nào cùng đồng hành sát cánh cùng nhau, nhiều khi các lợi ích đó sẽ xung đột
với nhau. Việc xác định và giải quyết tốt mối quan hệ về lợi ích giữa các bên không
những tạo ra sự đồng thuận trong quá trình thực hiện BT, HT, TĐC, mà còn góp phần
đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc công bằng, công khai trong SDĐ [71, tr.14].
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của các tổ chức tài trợ và
một số nước trên thế giới.
1.2.1.1. Chính sách bồi thường , hỗ trợ, tái định cư của các tổ chức tài trợ
Các dự án do Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)
cho vay phải được các Bộ chủ quản dự án thông qua như các chương trình TĐC đặc
biệt và khi tổ chức thực hiện cũng thường gặp các khó khăn nhất định, đặc biệt
trong việc gây ra bất bình đẳng giữa các cá nhân và hộ gia đình trong cùng một địa
phương nhưng lại ảnh hưởng các chính sách bồi thường thiệt hại khác nhau của các
dự án khác nhau.

17

mua căc hộ do thành phố quản lý và chính sách tái định cư.

18


Các hộ bị thu hồi đất có quyền mua hoặc nhận căn hộ do nhà nước quản lý,
được xây tại khu đất được thu hồi có bán kính cách Seoul khoảng 5km. Khi thị
trường bất động sản bùng nổ, hầu hết các hộ có quyền mua căn hộ có thể bán lại
quyền mua căn hộ của mình với giá cao hơn nhiều lần so với giá gốc.
* Trung Quốc:
Có thể nói, mục tiêu bao trùm lên chính sách BT, HT, TĐC là hạn chế đến
mức tối đa việc thu hồi đất, giải tỏa mặt bằng cũng như số lượng người bị ảnh
hưởng bởi việc thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư. Nếu như việc thu hồi đất là
không thể tránh khỏi thì có sự chuẩn bị cẩn thận phương án BT, trên cơ sở tính toán
đầy đủ lợi ích của Nhà nước, tập thể và cá nhân, đảm bảo cho những người bị thu hồi
đất có thể khôi phục lại hoặc cải thiện mức sống so với trước khi bị thu hồi đất.
Theo quy định của pháp luật Trung Quốc, khi Nhà nước thu hồi đất thì
người nào sử dụng đất sau đó có trách nhiệm BT. Người bị thu hồi đất được
thanh toán ba loại tiền: tiền BT đất đai, tiền trợ cấp về TĐC, tiền trợ cấp BT hoa màu
trên đất. Cách tính tiền BT đất đai và tiền trợ cấp TĐC căn cứ theo tổng giá trị tổng
sản lượng của đất đai những năm trước đây rồi nhân với hệ số. Tiền BT cho hoa màu,
cho các loại tài sản trên đất được tính theo giá cả hiện tại.
Mức BT cho giải phóng mặt bằng (GPMB) được thực hiện theo nguyên tắc đảm
bảo cho người dân có cuộc sống bằng hoặc cao hơn nơi ở cũ. Việc quản lý GPMB
được giao cho các cục quản lý tài nguyên đất ở địa phương đảm nhiệm. Tổ chức, cá
nhân được quyền sử dụng thửa đất nào sẽ trả tiền thuê một đơn vị giải tỏa mặt bằng.
Để giải quyết nhà ở cho người dân khi GPMB, phương thức chủ yếu của
Trung Quốc là trả tiền và hỗ trợ bằng cách tính ba khoản sau: Một là, giá cả xây
dựng lại nhà mới và nhà cũ; Hai là, giá đất tiêu chuẩn; Ba là, trợ cấp về giá cả. Ba
khoản này cộng lại là tiền BT về nhà ở.

Nhà nước thu hồi đất.
+ Quy định về giá đất, giá tài sản bồi thường phù hợp hơn với giá trị thiệt hại
thực tế của người dân có đất bị thu hồi. Song song với công tác bồi thường về đất,
tài sản gắn liền với đất, Nhà nước còn tiến hành một số chính sách hỗ trợ nhằm đảm
bảo ổn định cuộc sống tại nơi ở cũ hoặc nơi ở mới.
+ Quy định đầy đủ phạm vi, đối tượng áp dụng, điều kiện được bồi thường,
chi tiết và cụ thể hóa các trường hợp bồi thường thiệt hại về đất, nhà, các tài sản
khác gắn liền với đất cho phù hợp với thực tế quản lý sử dụng đất, tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình tổ chức thực hiện.

20



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status