Tổng quan về ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng - Pdf 50


Tổng quan về Ngân hàng và
các dịch vụ Ngân hàng
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng năm …..
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng năm …..
Dẫn nhập:
Trong những năm gần đây,kinh tế Việt Nam đã có nhiều khởi sắc với tốc độ tăng
trưởng GDP cao và ổn định.Đóng góp vào kết quả đó,không thể không kể đến vai trò của
Thị trường chứng khoán.Mặc dù còn non trẻ,Thị trường chứng khoán đã từng bước khẳng
định vị thế,tầm quan trọng của mình,là sản phẩm của nền kinh tế thị trường hiện
đại.Bên cạnh đó,sự phối hợp giữa Thị trường chứng khoán và các trung
gian tài chính đặc biệt là ngân hàng thương mại ngày càng khăng khít và
chặt chẽ.Vậy thì vai trò của Ngân hàng thương mại trên Thị trường
chứng khoán là gì?Nhóm chúng tôi muốn tìm hiểu,nghiên cứu và đưa ra
một cái nhìn đầy đủ,chính xác và khách quan nhất về vấn đề này.
Bài viết gồm những phần chính sau đây:
1.Tổng quan về NHTM ………………………………………………………………..2
2.Tổng quan về TTCK…………………………………………………………………14
3.Hoạt động của NHTM trên TTCK……………………………………………………24
4.Vai trò của NHTM trên TTCK……………………………………………………….37
5.Giải pháp nâng cao vai trò NHTM trên TTCK……………………………………….47
Thành viên của nhóm:
1,Thái Bá Anh
2,Nguyễn Thùy Trang
3,Vũ Huy Hoàng
4,Lê Anh Dũng
5,Dương Nữ Kiều Oanh
6,Trịnh Anh Pháp
7,Lê Thanh Hải
8,Trịnh Tuấn Anh
9,Hoàng Quốc Dũng

phạm vào lĩnh vực ngân hàng của các “ngân hàng giả”, đã đưa ra quyết định rằng: việc cho
vay đối với cá nhân và hộ gia đình cũng là một trong những hoạt động ngân hàng tiêu
biểu để phân biệt ngân hàng với các tổ chức tài chính khác. Điều đó đưa Merrill Lynch và
các tổ chức tương tự trở thành các ngân hàng thực thụ và phải tuân theo qui định chặt chẽ
của Chính phủ.
Sau đó các công ty kinh doanh và môi giới chứng khoán hàng đầu đã kiện lên tòa liên
bang, buộc tội Fed đã vượt quá quyền hạn. Năm 1984, tòa án liên bang công nhận này và
buộc Fed phải cho phép tồn tại hình thức “các ngân hàng phi ngân hàng” và cho họ tham
gia bảo hiểm tiền gửi liên bang. Chỉ trong vòng vài tuần sau phán quyết này, hàng tá đơn
xin thành lập “ngân hàng phi ngân hàng” đã được nộp . E.F. Hutton, J.C.Penney và Sears
Roebuck là những công ty cung cấp dịch vụ tài chính hàng đầu được tổ chức dưới dạng
ngân hàng phi ngân hàng. Hơn thế, các công ty sở hữu ngân hàng lớn của Citicorp và
Chase Manhattan cũng thành lập các “ngân hàng phi ngân hàng” của riêng họ bởi vì với
loại ngân hàng này họ có thể mở rộng chi nhánh tự do qua biên giới bang. Năm 1987,
Quốc hội hạn chế sự bành chướng của các “ngân hàng phi ngân hàng” bằng cách ràng buộc
các công ty sở hữu ngân hàng phi ngân hàng vào những quy định tương tự như các tổ chức
ngân hàng truyền thống. Cuối cùng, Quốc hội đã “bắn phát súng cuối cùng” trong việc đưa
ra một định nghĩa mang tính pháp lý về ngân hàng: ngân hàng được định nghĩa như một
công ty là thành viên của Công ty Bảo hiểm tiền gửi Liên bang. Đây thật là một sự thay
đổi thông minh vì theo luật hiện hành của Mỹ, người ta không các định ngân hàng trên cơ
sở những hoạt động của nó mà trên cơ sở cơ quan chính phủ nào sẽ bảo hiểm cho tiền gửi
của nó.
Dòng nước đã bị vẩn đục. Vào năm 1991, chính quyền của tổng thống George Bush đề
nghị cho phép các ngân hàng với vốn tự có thích hợp sẽ được quyền cung cấp hàng loạt
những dịch vụ mới và được phép liên kết với các công ty môi giới và kinh doanh chứng
khoán, các công ty đầu tư (các quĩ tương hỗ); cho phép công ty công nghiệp sở hữu các
công ty cung cấp dịch vụ tài chính ( những công ty này có thể điều hành nganhangf và các
công ty bảo hiểm); cho phép các công ty ngân hàng đầu tư vào những ngành công nghiệp
phi tài chính trên cơ sở một số điều kiện ràng buộc. Do đó, các hàng rào pháp lý có tính
lịch sử ở Hoa kỳ phân tách hoạt động ngân hàng với các hoạt động kinh doanh khác – điều

hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình
độ chuyên môn cao.
Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại. Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã
chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa phương những
người bán các khoản nợ (khoản phải thu) của khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt.
Đó là bược chuyển tiếp từ chiết thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách
hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ hoặc xây dựng văn phòng và thiết bị sản xuất.
Nhận tiền gửi. Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm
kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong những nguồn vốn quan trọng là
các khoản tiền gửi tiết kiệm gửi tiết kiệm của khách hàng – một quỹ sinhlợi được gửi tại
ngân hàng trong khoảng thời gian nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm, đôi khi được hưởng
mức lãi suất tương đối cao. Trong lịch sử đã có những kỷ lục về lãi suất, chẳng hạn các
ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi suất 16% một năm để thu hút các khoản tiết kiệm nhằm mục
đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi suất gấp đôi hay gấp ba lãi suất
tiết kiệm.
Bảo quản vật có giá trị: Ngay từ thời Trung Cổ, các ngân hàng đã bắt đầu thực hiện việc
lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Một điều hấp hẫn
là các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách hàng (ghi nhận về các tài sản đang
được lưu giữ) có thể được lưu hành như tiền – đó là hình thức đầu tiên của séc và thẻ tín
dụng. Ngày nay, nghiệp vụ bảo quản vật có giá trị cho khách hàng thường do phòng “Bảo
quản” của ngân hàng thực hiện.
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ. Trong thời kỳ Trung Cổ và vào những năm đầu
cách mạng Công nghiệp, khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng
đã trở thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ Âu – Mỹ. Thông thường, ngân hàng
đượccấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ
lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được. Các ngân hàng đã cam
kết cho Chính phủ Mỹ vay trong thời kỳ chiến tranh. Ngân hàng Bank of North America
được Quốc hội cho phép thành lập năm 1781, ngân hàng này được thành lập để tài trợ cho
cuộc đấu tranh xóa bỏ sự đô hộ của nước Anh và đưa Mỹ trở thành quốc gia có chủ quyền.
Cũng như vậy, trong thời kỳ nội chiến, Quốc hội đã lập ra một hệ thống ngân hàng liên

rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời
thấp. Đầu thế ký này, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi của khách hàng để
tài trợ cho những món vay thương mại lớn. Và rồi sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành
giật tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một
khách hàng trung thành tiềm năng. Cho tới những năm 1920 và 1930, nhiều ngân hàng lớn
do Citicorp và Bank of America dẫn đầu đã thành lập những phòng tín dụng tiêu dùng lớn
mạnh. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những
loại hình tín dụng có mức tăng trưởng nhanh nhất. Mặc dầu vậy, tốc độ tăng trưởng này
gần đây đã chậm lại do cạnh tranh về tín dụng tiêu dùng ngày càng trở nên gay gắt trong
khi nền kinh tế đã phát triển chậm lại. Tuy nhiên, người tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn
vốn chủ yếu của ngân hàng và tạo ra một trong số những nguồn thu quan trọng nhất.
Tư vấn tài chính: Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện hoạt động
tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay cung cấp nhiều
dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài chính cho các cá nhân
đến tư nhân về các cơ hội thị trường trong nước và ngoài nước cho các khách hàng kinh
doanh của họ.
Quản lý tiền mặt. Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một số dịch vụ mà
họ làm cho bản thân mình cũng có ích đối với các khách hàng. Một trong những ví dụ nổi
bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho
một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng
khoản sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Trong khi các ngân hàng có khuynh hướng chuyên môn hóa vào dịch vụ quản lý tiền mặt
cho các tổ chức, hiện nay có một xu hường đang gia tăng về việc cung cấp các dịch vụ
tương tự cho người tiêu dùng. Sở dĩ khuynh hướng này đang lan rộng là do các công ty
môi giới chứng khoán, các tập đoàn tài chính khác cũng cấp cho người tiêu dùng tài khoản
môi giới với hàng loạt dịch vụ tài chính liên quan. Một ví dụ là tài khoản quản lý tièn mặt
của Merrill Lynch, cho phép khách hàng của nó mua và bán chứng khoán, di chuyển vốn
trong nhiều quĩ tương hỗ, viết séc, và sử dụng thẻ tín dụng cho khoản vay tức thời.
Dịch vụ thuê mua thiết bị. Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh
quyền lựa chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong

phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế. Ngân hàng cũng bán các kế
hoạch tiền gửi hưu trí (được biết như IRAS và Keogle) cho các cá nhân và giữ nguồn tiền
gửi cho đến khi người sở hữu các kế hoạch này cần đến.
Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán. Trên thị trường tài chính hiện nay,
nhiều ngân hàng đang phấn đấu để trở thành một “bách hóa tài chính” thực sự, cung cấp đủ
các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thỏa mãn mọi nhu cầu tại một địa điểm. Đây là
một trong những lý do chính khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng
khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác
mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các
ngân hàng mua lại một công ty môi giới đang hoạt động (ví dụ Bank of America mua
Robertson Stephens Co.) hoặc thành lập các liên doanh với một công ty môi giới.
Cung cấp dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp. Do ngân hàng cung cấp các tài khoản tiền gửi
truyền thống với lãi suất quá thấp, nhiều khách hàng đã hướng tới việc sử dụng cái gọi là
sản phẩm đầu tư (investment products) đặc biệt là các tài khoản của quỹ tương hỗ và hợp
đồng trợ cấp, những loại hình cung cấp triển vọng thu nhập cao hơn tài khoản tiền gửi dài
hạn cam kết thanh toán một khoản tiền mặt hàng năm cho khách hàng bắt đầu từ một ngày
nhất định trong tương lai ( chẳng hạn ngày nghỉ hưu). Ngược lại, quỹ tương hỗ bao gồm
các chương trình đầu tư được quản lý một cách chuyên nghiệp nhằm vào việc mua cổ
phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phù hợp với mục tiêu của quỹ (ví dụ: Tối đa hóa thu
nhập hay đạt được sự tăng giá trị vốn). Trong khi quá trình phát triển của các kế hoạch trợ
cấp diễn ra khá chậm do những vụ kiện tụng bởi các đối thủ cạnh tranh chống lại sự mở
rộng của ngân hàng sang lĩnh vực dịch vụ mới này thì việc cung cấp cổ phiếu trong quỹ
vốn ngân hàng quản lý chiếm 15% tổng giá trị tài sản của quỹ tương hỗ trong những năm
90. Một vài ngân hàng đã tổ chức những chi nhánh đặc biệt để thực hiện nhiệm vụ này (ví
dụ: Citicorp’s Investment Services) hoặc liên doanh với các nhà kinh doanh và môi giới
chứng khoán. Gần đây, hoạt động cung cấp nghiệp vụ quỹ tương hỗ của ngân hàng đã có
nhiều giảm sút do mức thu nhập không còn cao như trước, do những qui định nghiêm ngắt
hơn và đồng thời do sự thay đổi trong quan điểm đầu tư của công chúng.
Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn. Ngân hàng ngày nay đang
theo chân các tổ chức tài chính hàng đầu trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và

Nhiều loại hình tín dụng và tài khỏan tiền gửi mới đang được phát triển, các loại dịch vụ
mới như giao dịch qua Internet và thẻ thông minh (Smart) đang được mở rộng và các dịch
vụ mới (như bảo hiểm và kinh doanh chứng khoán) được tung ra hàng năm. Nhìn chung,
dạnh mục các dịch vụ đầy ấn tượng do ngân hàng cung cấp tạo ra sự thuận lợi rất lớn hơn
cho khách hàng. Khách hàng có thể hoàn toàn thỏa mãn tất cả các nhu cầu dịch vụ tài chính
của mình thông qua một ngân hàng và tại một địa điểm. Thực sự ngân hàng đã trở thành
“bách hóa tài chính” ở kỷ nguyên hiện đại, công việc hợp nhất các dịch vụ ngân hàng, bảo
hiểm, môi giới chứng khoán… dưới một mái nhà chính là xu hướng mà người ta thường
gọi là Universal Banking ở Mỹ, Canada và Anh, là Allginanz ở Đức, và là Bancassurance ở
Pháp.

Các khuynh hướng ảnh hưởng tới hoạt động ngân hàng
Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục dịch vụ. Như chúng ta đã thấy ở phần trước,
các ngân hàng đang mở rộng danh mục dịch vụ tài chính mà họ cung cấp cho khách hàng.
Qúa trình mở rộng danh mục dịch vụ đã tăng tốc trong những năm gần đây dười áp lực
cạnh tranh gia tăng từ các tổ chức tài chính khác, từ sự hiểu biết và đòi hỏi cao hơn của
khách hàng, và từ sự thay đổi công nghệ. Nó cũng làm tăng chi phí của ngân hàng và dẫn
đến rủi ro phá sản cao hơn. Các dịch vụ mới đã có ảnh hưởng tốt đến ngành công nghiệp
này thông qua việc tạo ra những nguồn thu mới cho ngân hàng – các khoản lệ phí của dịch
vụ không phải lãi, một bộ phận có xu hướng tăng trưởng nhanh hơn so với các nguồn thu
truyền thống từ lãi cho vay.
Sự gia tăng cạnh tranh. Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở
lên quyết liệt khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục dịch vụ. Các
ngân hàng địa phương cung cấp tín dụng, kế hoạch tiết kiệm, kế hoạch hưu trí, dịch vụ tư
vấn tài chính cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng, kế hoạch tiết kiệm, kế hoạch hưu
trí, dịch vụ tư vấn cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đây là những dịch vụ đang
phải đối mặt với sự cạnh tranh trực tiếp từ các ngân hàng khác, các hiệp hội tín dụng, các
công ty kinh doanh chứng khoán như Merrill Lynch, các công ty tài chính như GE Capital
và các tổ chức bảo hiểm như Prudential. Áp lực cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy
tạo ra sự phát triển dịch vụ cho tương lai.

thị trường. Ngân hàng đã phát hiện ra rằng họ đang phải đối mặt với những khách hàng có
giáo dục hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Các khoản tiền gửi “trung thành” của họ có thể dễ
tăng cường khả năng cạnh tranh trên phương diện thu nhập trả cho công chúng gửi tiền và
nhạy cảm hơi với ý thích thay đổi của xã hội về vấn đề phân phối các khoản tiết kiệm.
Cách mạng trong công nghệ ngân hàng. Đối mặt với chi phí hoạt động cao hơn, từ nhiều
năm gần đây các ngân hàng đã và đang chuyển sang sử dụng hệ thống hoạt động tự động
và điện tử thay thế cho hệ thống dựa trên lao động thủ công, đặc biệt là trong công việc
nhận tiền gửi, thanh toán bù trừ và cấp tín dụng. Những ví dụ nổi bật nhất bao gồm các
máy rút tiền tự động ATM, ở Mỹ có hơn 100.000 chiếc, cho phép khách hàng truy nhập tài
khoản tiền gửi của họ 24/24 giờ; Máy thanh toán tiền POS được lắp đặt ở các bách hóa và
trung tâm bán hàng thay thế cho các phương tiện thanh toán hàng hóa dịch vụ bằng giấy;
và hệ thống máy vi tính hiện đại xử lý hàng ngàn giao dịch một cách nhanh chóng trên toàn
thế giới.
Do đó, ngân hàng đang trở thành ngành sử dụng nhiều vốn và chi phí cố định; sử dụng ít
lao động và chi phí biến đổi. Nhiều chuyên gia tin rằng các tòa nhà ngân hàng và các cuộc
mít tinh gặp mặt trực tiếp giữa các nhà ngân hàng và khach shàng cuối cùng sẽ trở thành
những di tích của quá khứ và bị thay thế bởi các cuộc liên quan và giao tiếp điện tử. Sản
xuất và cung cấp dịch vụ sẽ hoàn toàn tự động. Những bước đị đó sẽ giảm đáng kể chi phí
nhân công hóa ngân hàng và gây ra tình trạng mất việc làm khi máy móc thay thế người lao
động. Tuy nhiên, những kinh nghiệp gần đây gợi ý rằng một ngành ngân hàng hoàn toàn tự
động có thể vẫn còn là điều xa vời. Một tỷ lệ lớn khách hàng vẫn ưa chuộng các dịch vụ
của con người và những cơ hội để nhận được sự tư vấn cá nhân về các vấn đề tài chính.
Sự củng cố và mở rộng hoạt động về mặt địa lý. Sử dụng có hiệu quả quá trình tự động
hóa và những đổi mới công gnhệ đòi hỏi các hoạt động ngân hàng phải có qui mô lớn. Vì
vậy, ngân hàng cần pahỉ mở rộng cơ sở khách hàng bằng cách vươn tới các thị trường mới,
xa hơn và gia tăng số lượng tài khoản. Kết quả là hoạt động mở chi nhánh ngân hàng diễn
ra. Mô hình công ty sở hữu ngân hàng mua lại các ngân hàng nhỏ và đưa chúng trở thành
bộ phận của các tổ chức ngân hàng mua lại các ngân hàng nỏi và đưau chúng trở thành bộ
phận của các tổ chức ngân hàng đa trụ sở đã ngày càng phổ biến. Nhiều vụ đại hợp nhất đã
diễn ra như vụ hợp nhất giữa Chemical Bank và Chase Manhttan ở New York hay Bank of

hợp nhất và bánh trướng về mặt địa lý đã giúp nhiều ngân hàng ít tổn thương trong điều
kiện kinh tế trong nước thì sự đẩy mạnh cạnh tranh giữa các ngân hàng và các tổ chức phi
ngân hàng kèm theo các khoản tín dụng có ván đề một nền kinh tế luôn biến động đã dẫn
tới sự phá sản ngân hàng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Xu hướng phi quản lý hóa trong
lĩnh vực tài chính đã mở ra cơ hội cho các nhà ngân hàng, nhưng cũng chỉ tạo ra một thị
trường tài chính xảo trá hơn, nơi mà sự phá sản, thôn tính và thành lý ngân hàng dễ xảy ra
hơn.
Phải chăng các ngân hàng đang chết?
Gần đây Mỹ, châu Âu và châu Á, hàng trăm ngân hàng và các tổ chức nhận tiền gửi đã sáp
nhập và sụp đổ. Người ta bắt đầu lo lắng cho tương lai của ngành công nghiệp ngân hàng.
Thậm chí, đối với các ngân hàng còn sống sót, có những bằng chứng cho thấy thị phần của
chúng trên thị trường dịch vụ tài chính bắt đầu suy giảm trong khi các công ty chứng
khoán, các công ty bảo hiểm, các quỹ tương hỗ và các công ty tài chính đã đạt được sự
tăng trưởng thị phần đáng kể. Gần đây, ngân hàng Dự trữ Liên bang St.Louis đã tính toán
rằng tỷ lệ tổng tài sản do ngân hàng và các tổ chức nhận tiền gửi nắm giữ so với tất cả các
trung gian tài chính giảm từ 56% năm 1982 xuống hơn 42% trong năm 1991 – một “sự co
rút tự nhiên” theo sau làn sóng phi quản lý hóa trong ngành công nghiệp này và với mtộ thị
trường tài chính phức tạp hơn. Một số nhà phân tích (ví dụ Beim đã tuyen bố rằng các ngân
hàng hiện nay đang “chết”.
Khi các thị trường ngày càng trở nên có hiệu quả với những tiến bộ gần đây trong công
nghệ, cùng với xu hướng các khách hàng lớn hơn tăng cường tìm kiếm những phương thức
vay nợ mới (như bán chứng khoán trên thị trường mở), các ngân hàng truyền thống ngày
càng trở nên ít cần thiết. Ít nhất thì cũng có quá nhiều ngân hàng - ở Mỹ có gần 9.000 – và
có quá nhiều nguồn lực được tập trung vào lĩnh vực ngân hàng. Người ta có thể phản đối
rằng rất nhiều những ngân hàng này đơn giản là đang nhận được sự bảo vệ và nâng đỡ của
Chính phủ dưới hình thức bảo hiểm tiền gửi và các khoản vay của Chính phủ với giá rẻ. Có
lẽ, sự sáp nhập và đổ vỡ ngân hàng toàn cầu gần đây chỉ đơn giản là dấu hiệu cho thấy
ngành công nghiệp ngân hàng đã “quá đông” và đang phải đương đầu về sự sa sút nhu cầu
đối với các dịch vụ truyền thống.
Rồi nữa, các ngân hàng cũng phải chịu gánh nặng từ những qui định của Chính phủ hơn

lừa khách hàng rằng tất cả các ngân hàng đều an toàn và điều này có thể cho một ngân
hàng nào đó những thuật lợi không chính đáng trong hoạt động thu hút tiền của công
chúng. Những ngân hàng không lành mạnh phải được phép rời khỏi ngành sẽ không nhất
thiết phải tồn tại, hầu hết các ngân hàng có thể tăng khả năng cạnh tranh nếu chúng được
phép cung cấp nhiều dịch vụ hơn và bảo hiểm tiền gửi được định giá một cách chính xác
để phản ánh mức độ rủi ro của mỗi ngân hàng. Tóm lại, ngân hàng truyền thống có thể chết
nhưng nếu các ngân hàng được tự do hơn trong việc đáp ứng các nhu cầu thay đổi không
ngừng của công chúng về những dịch vụ mới, chúng không nhất thiết phải chết.
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
A. Những vấn đề cơ bản về chứng khoán
I. Khái niệm chứng khoán
Chứng khoán là các công cụ để huy động vốn trung và dài hạn, các giấy tờ có giá, có
khả năng chuyển đổi, chuyển nhượng nhằm xác nhận quyền sở hữu, quan hệ vay nợ giữa
người nắm giữ nó và chủ thể phát hành ra nó. Đối với mỗi loại chứng khoán thường có các
tính chất sau:
1. Tính thanh khoản (tính lỏng) của một chứng khoán là khả năng chuyển đổi giữa
chứng khoán đó sang tiền mặt. Tính lỏng của chứng khoán thể hiện qua việc chứng khoán
đó được mua bán, trao đổi trên thị trường.
2. Tính sinh lời: Thu nhập của nhà đầu tư được sinh ra từ việc tăng giá chứng khoán
trên thị trường, hay các khoản tiền lãi được trả hàng năm.
3. Tính rủi ro: Đây là đặc trưng cơ bản của chứng khoán.Trong quá trình trao đổi, mua
đi bán lại, giá của chứng khoán bị giảm hoặc mất hoàn toàn ta gọi là rủi ro.
II. phân loại chứng khoán
1. Cổ phiếu
Là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với thu nhập và
tài sản của công ty cổ phần. Số vốn đóng góp để thành lập công ty được chia ra thành
nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ phiếu có
thể được phát hành dưới dạng chứng chỉ vật chất hoặc bút toán ghi sổ. Giá trị ban đầu ghi
trên cổ phiếu là mệnh giá của cổ phiếu. Mệnh giá là giá trị danh nghĩa. Số tiền nhận được
từ khoản góp vốn gọi là cổ tức.Giá cổ phiếu giao động qua các phiên giao dịch trên thị

trả cả lãi và gốc cho trái chủ như ®· nªu trong hợp đồng.Nó bao gồm các loại: Trái phiếu
có đảm bảo, trái phiếu không có bảo đảm, trái phiếu có thể mua lại…
3. Chứng chỉ quỹ đầu tư
Là chứng khoán được phát hành bởi công ty quản lý quỹ để huy động vốn từ các nhà
đầu tư. Vốn được dùng để mua bán kinh doanh các loại chứng khoán khác để kiếm lời, sau
đó chia tiền lời đó cho các nhà đầu tư.Có thể phân loại chứng chỉ quỹ đầu tư thành:
a. Quỹ đầu tư chung: §ây là loại quỹ mà tất cả mọi người đều có thể tham gia.
b. Quỹ đầu tư riêng: Chỉ giới hạn ở một nhóm người nhất định.
c. Quỹ đầu tư dạng mở: Là quỹ đầu tư trong đó nhà đầu tư có quyền bán lại chứng chỉ
quỹ đầu tư cho quỹ phát hành chứng khoán liªn tôc ®Ó huy ®éng vèn và sẵn sàng mua lại
số chứng khoán mà nó ®· phát hành ra.
d. Quỹ đầu tư cổ phiếu: Quỹ chuyên đầu tư vào một loại cổ phiếu nhất định.
e. Quỹ đầu tư trái phiếu: Là quỹ để đầu tư vào một loại trái phiếu nào đó.
g. Quỹ đầu tư hỗn hợp: Loại quỹ đầu tư vào bất kì loại chứng khoán nào nếu thấy có
hiệu quả
Ngoài ra, còn có một số loại chứng khoán khác như: Giấy bảo đảm quyền mua cổ phiếu,
các hợp đồng kì hạn, chứng quyền…
B. Tổng quan về thị trường chứng khoán
I. Khái niệm thị trường chứng khoán
Trong nền kinh tế thị trường, xã hội của sản xuất được phân chia thành hai cực:
Một cực có vốn tìm nơi đầu tư và một cực cần vốn để đầu tư vào sản xuất và kinh doanh.
Trong những ngày đầu của sản xuất hàng hóa và lưu thông tiền tệ, hệ thống ngân
hàng sớm ra đời để huy động các nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi hình thành trong xã hội nhằm
tái phân phối cho nền kinh tế quốc dân theo nguyên tắc tín dụng. Như vậy, một kênh vốn
nối hai cực đó lại với nhau và phải thông qua các trung gian tài chính, trong đó chủ yếu là
hệ thống ngân hàng được gọi là kênh dẫn vốn gián tiếp. Khi xã hội của sản xuất và lưu
thông hàng hóa phát triển ở giai đoạn cao, ngày một hoàn thiện thì những người có vốn đã
có đủ điều kiện về môi trường pháp lý, môi trường tài chính v.v… để chuyển vốn của mình
trực tiếp đầu tư vào sản xuất không phải thông qua tầng lớp trung gian tài chính mà phải
thông qua thị trường chứng khoán – một thị trường dẫn vốn trực tiếp từ cực có vốn này

tiến hành giao dịch. Nơi đó có thể là tại quầy giao dịch ở các ngân hàng bất kỳ nào đó. Thị
trường hình thành như thế gọi là thị trường giao dịch qua quầy (Over-the-counter – OTC)
Ngày nay, nhờ vào thành quả của cách mạng tin học, hệ thống INTERNET đã gắn
kết các thành viên của thị trường lại với nhau, do đó việc trao đổi thông tin, tiến hành giao
dịch mua bán chứng khoán không phải đến tận quầy của các ngân hàng và có thể tiến hành
ngay trên bàn máy vi tính. Đây là một hình thái của thị trường chứng khoán phi tổ chức
bậc cao mới xuất hiện trong thập kỉ qua. Thị trường này chưa có tên chính thức, có người
gọi đó là thì trường thứ ba (Third Market)
II. Vai trò của thị trường chứng khoán trong phát triển kinh tế.
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực với sự ra đời của tổ chức thương mại thế
giới (WTO), của liên minh Châu Âu, khối thị trường chung đòi hỏi các quốc gia phải thúc
đẩy phát triển kinh tế với tốc độ cao và hiệu quả cao. Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc
gia trên thế giới đã khẳng định vai trò của thị trường chứng khoán trong phát triển kinh tế.
1. thứ nhất, thị trường chứng khoán với việc tạo ra các công cụ có tính thanh khoản
cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu
cầu phát triển kinh tế.
Ở Hàn Quốc, thị trường chứng khoán đã đóng vai trò không nhỏ trong sự tăng trưởng
kinh tế trong hơn ba mươi năm, cho tới thập kỷ 90 thị trường chứng khoán nước này đã lớn
mạnh và đứng hàng thứ 13 trên thế giới góp phần tạo mức tăng trưởng kinh tế đạt bình
quân 9% năm, thu nhập quốc dân bình quân đầu người năm 1995 là trên 10.000USD.
Yếu tố thông tin là yếu tố cạnh tranh trên thị trường sẽ đảm bảo cho việc phân phối
vốn một cách hiệu quả Trên thị trường chứng khoán, tất cả các thông tin được cập nhật và
được chuyển ti tới tất cả các nhà đầu tư để họ có thể phân tích và định giá cho các chứng
khoán.
Thị trường chứng khoán đã tạo ra một sự cạnh tranh có hiệu quả trên thị trưòng tài
chính, do đó các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính phải quan tâm tới hoạt
động tài chính của họ và làm giảm chi phí tài chính.
Việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán có thể làm tăng vốn tự có của các công ty
và giúp họ tránh các khoản vay có chi phí cao cũng như sự kiểm soát chặt chẽ của các ngân
hàng thương mại. Thị trường chứng khoán khuyến khích tính cạnh tranh của các công ty


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status