Trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố hồ chí minh - Pdf 51

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG VĂN HOÀNG

TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG VĂN HOÀNG

TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐINH XUÂN NAM


...................................................................................................36

1

CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT GIỮA CÁC CƠ QUAN TIẾN
HÀNH TỐ TỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................38
2.1. Diễn biến tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm 2017 trả hồ sơ để điều tra
bổ sung. .................................................................................................................38
2.2. Tình hình trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với tội phạm xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm
2017 ......................................................................................................................40
2.3. Nguyên nhân dẫn
......................................51

đến

trả

hồ



để

điều

Tiểu

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật Hình sự

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

TA:

Tòa án

TAND:

Tòa án nhân dân

TP HCM:

Thành phố Hồ Chí Minh

TTHS:


điều tra, truy tố và xét xử đúng người đúng tội đúng pháp luật, không bỏ lột tội
phạm và người phạm tội. Bộ luật TTHS năm 2015 tại các điều 245, 246, 280 đã
quy định căn cứ để trả điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, Thông tư
liên tịch số 02 ngày 22 tháng 12 năm 2017 giữa VKSND Tối cao, Tòa án nhân dân
Tối cao, Bộ công an, Bộ quốc phòng quy định quy định việc phối hợp cơ quan tiến
hành tố tụng trong việc thực hiện các quy định của Bộ luật TTHS 2015 về trả hồ sơ
điều tra bổ sung. Đây là những căn cứ pháp lý quan trọng bảo đảm cho các cơ quan
tiến hành tố tụng trả hồ sơ điều tra bổ sung có căn cứ và đúng pháp luật, tránh
trường hợp lợi dụng việc trả hồ sơ điều tra bổ sung trong việc gây khó khăn trong
công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự.
Có thể nói rằng trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan
tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ được giao bảo đảm việc truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, hạn chế ở mức thấp nhất các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung dẫn đến
tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án.
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, Thành phố Hồ Chí Minh là trung
tâm kinh tế, văn hóa-xã hội của cả nước, là địa phương có nền kinh tế phát triển sôi
động nhất cả nước, nhiều khu công nghiệp, nhiều khu chế xuất ra đời thu hút mạnh
mẽ nhà đầu tư trong và ngoài nước, các dịch vụ du lịch vui chơi giải trí, nhà hàng
khách sạn ngày còn phát triển. Mặc khác đây cũng là địa phương thu hút nguồn lao
động trong cả nước về đây làm việc, học tập, sinh sống và làm việc dân số tăng
nhanh đến nay có khoảng 8,4 triệu người dẫn đến việc quản lý tình hình trật tự trị
an, an toàn xã hội, quản lý con người gặp nhiều khó khăn. Theo số liệu thống kê của
VKSND thành phố Hồ Chí minh, trong 5 năm gần đây kể từ năm 2013 đến năm
2017. Trên địa bàn thành phố trung bình hàng năm VKS truy tố khoảng 9500 đến
10 000 vụ án hình sự với trên 12 000 bị can trong đó các tội xâm phạm sở hữu có
1


tính chất chiếm đoạt chiếm khoảng trên 70% tổng số vụ và gần 80% số bị can.



pháp luật về điều tra bổ sung”, Tạp chí Luật học, số 7/2008; Tác giả Nguyễn Hữu
Hậu, “Thẩm quyền của Viện kiểm sát và của Kiểm sát viên trong việc đề ra các yêu
cầu điều tra và điều tra bổ sung”, Tạp chí kiểm sát số 16/2009; Tác giả Lê Ngọc
Huấn, “Một số giải pháp nhằm hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng”, Tạp chí kiểm sát số 10/2009; Tác giả Nguyễn Đình
Huề, “Một số vấn đề về trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung”, Tạp chí Tòa
án số 4/2009; Tác giả Trần Vi Dân, “Một số giải pháp khắc phục việc trả hồ sơ điều
tra bổ sung, điều tra lại”, Tạp chí kiểm sát số 2/2010; Tác giả Nguyễn Ngọc Kiện,
“Hoàn thiện chế định Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung trong Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 7/2012; Tác giả Nguyễn Thị
Phương Thảo, “Một số vấn đề về hoạt động điều tra bổ sung của Viện kiểm sát ở
giai đoạn xét xử phúc thẩm”, Tạp chí kiểm sát số 6/2012; Tác giả Vũ Gia Lâm,
“Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về việc Tòa án cấp sơ thẩm trả hồ
sơ để điều tra bổ sung”, Tạp chí Tòa án số 8/2013; Tác giả Nguyễn Quang Lộc,
“Bàn về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung”, Tạp chí Tòa án số 8/2013; Tác giả
Thái Chí Bình, “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2013 về
yêu cầu điều tra bổ sung”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11/2013; Tác giả Lê
Ngọc Duy, “Một số giải pháp nhằm hạn chế việc trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với
Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội”, Tạp chí kiểm sát số
6/2013; Tác giả Lê Tấn Cường, “Giải pháp để hạn chế việc trả hồ sơ điều tra bổ
sung trong giai đoạn truy tố”, Tạp chí kiểm sát số 10/2014; Tác giả Đào Anh Tới,
“Hoàn thiện chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung”, Tạp chí kiểm sát số 13/2014…
Các công trình nghiên cứu và bài viết nói trên đã đề cập đến trả hồ sơ điều tra
bổ sung được quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nhưng các công trình nghiên cứu
trên chỉ nghiên cứu về cơ sở pháp lý mà chưa nghiên cứu đầy đủ, toàn diện và bao
quát đối thực tế đối với các án trả hồ sơ để điều tra bổ sung . Vì vậy việc nghiên cứu
đề tài của tác giả trong giai đoạn hiện tại là vấn đề cần thiết.
Một số vấn đề về mặt lý luận liên quan đến trả hồ sơ để điều tra bổ sung

- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về trả hồ sơ điều tra
bổ sung đối với các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt theo pháp luật TTHS Việt
Nam của Bộ luật TTHS năm 2015, và thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh.

4


- Phạm vi nghiên cứu:

+ Về nội dung, đề tài nguyên cứu Trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với các tội
XPSH có tính chất chiếm đoạt theo pháp luật TTHS Việt nam từ thực tiễn thành phố
Hồ Chí Minh.
+ Về chủ thể thực hiện: Đề tài nghiên cứu Trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với
các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt theo pháp luật TTHS Việt nam từ thực tiễn
thành phố Hồ Chí Minh của Cơ quan tiến hành tố tụng cấp quận, huyện và cấp
thành phố thuộc TP HCM.
+ Phạm vi về thời gian: Số liệu khảo sát đánh giá trong phạm vi 05 năm từ
năm 2013 đến năm 2017
+ Phạm vi về không gian: Địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:

Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về việc trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm và cải
cách tư pháp.
- Phương pháp nghiên cứu:

+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU
TRA BỔ SUNG GIỮA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG ĐỐI VỚI
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt
1.1.1. Khái niệm
Các tội XPSH là những hành vi có lỗi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
cho quan hệ sở hữu và sự gây thiệt hại này thể hiện được đầy đủ nhất bản chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi [36, tr. 5].
Các tội này được quy định tại Chương XIV Bộ luật Hình sự năm 1999 được
sửa đổi, bổ sung năm 2009 gồm 13 tội được quy định rất cụ thể từ Điều 133 đến
Điều 145.
Đó là các tội: tội cướp tài sản được quy định tại Điều 133; tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 134; tội cưỡng đoạt tài sản được quy định
tại Điều 135; tội cướp giật tài sản được quy định tại Điều 136; tội công nhiên chiếm
đoạt tài sản được quy định tại Điều 137; tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều
138; tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 139; tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 140; tội chiếm giữ trái phép tài sản
được quy định tại Điều 141; tội sử dụng trái phép tài sản được quy định tại Điều
142; tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản được quy định tại Điều 143; tội
thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước được quy
định tại Điều 144; tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản được quy định tại
Điều 145.
Nay các tội này được quy định tại Chương XVI BLHS năm 2015 (được sửa
đổi, bổ sung năm 2017), cũng gồm 13 tội từ điều 168 đến điều 180. Vậy BLHS năm
2015 về tên gọi (các tội xâm phạm sở hữu) và số lượng điều luật (13 điều) không
thay đối so với BLHS năm 1999. Sự không thay đổi này phản ánh sự ổn định của

1.1.2. Dấu hiệu pháp lý đặc trưng
Dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt (dựa
vào bốn yếu tố cấu thành tội phạm và khái niệm các tội XPSH có tính chất chiếm

8


đoạt) cụ thể như sau:
Thứ nhất, khách thể của tội phạm
Theo khoa học luật hình sự, khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được
luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [35, tr. 78].
Theo quy định của BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung 2009 thì các tội được
quy định cụ thể từ Điều 133 đến Điều 140; thực tiễn áp dụng như sau: các tội có
khách thể không chỉ là quan hệ sở hữu mà còn là quyền nhân thân đó là các tội được
quy định từ Điều 133 đến Điều 136 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung 2009. Còn đối
với các tội có khách thể chỉ là quan hệ sở hữu được quy định từ Điều 137 đến Điều
140 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung 2009.
Về đối tượng tác động thuộc khách thể của tội phạm, các tội XPSH có tính
chất chiếm đoạt có đối tượng tác động là tài sản thuộc sở hữu của người khác và
chúng còn nằm trong sự chiếm hữu, quản lí của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài
sản. Về nguyên tắc tài sản này là hợp pháp, bao gồm: vật có thực, tiền, giấy tờ trị
giá được bằng tiền và các quyền về tài sản (theo Điều 163 Bộ luật dân sự).
Thứ hai, mặt khách quan của tội phạm.
Hành vi phạm tội được hiểu là hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội
được luật hình sự quy định chịu sự kiểm soát, điều khiển bởi ý thức, ý chí của người
phạm tội [35, tr. 93-97]. Hành vi phạm tội có hai hình thức thể hiện là hành động và
không hành động.
Thực tiễn áp dụng các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt có những hành vi
khách quan khác nhau, theo quy định của BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung 2009.
Đó có thể là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực như tội Cướp tài sản, bắt cóc

trách nhiệm hình sự về những tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc những tội đặc biệt
nghiêm trọng quy định tại Điều 133; khoản 2,3, và 4 của các Điều 134, 135, 136;
khoản 3 và 4 các Điều 137, 138, 139, 140. Ngoài ra tại các Điều 139, 140 BLHS,
Thứ tư, mặt chủ quan của tội phạm:
Mặt chủ quan của tội phạm các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt được thực
hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt biết tài sản chiếm
đoạt là tài sản đang có người quản lí nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành
của mình.
Về động cơ và mục đích phạm tội: người phạm tội mong muốn chiếm đoạt

10


được tài sản của người khác và dấu hiệu chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc đối với các
tội này. Không chỉ tùy thuộc vào đặc trưng của từng tội do BLHS quy định mà dấu
hiệu chiếm đoạt trong các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt là khác nhau. Chúng có
thể là hành vi chiếm đoạt, mục đích chiếm đoạt hoặc chiếm đoạt được. Cụ thể: Đối
với các tội từ Điều 133 đến Điều 135 BLHS, khách thể được bảo vệ bao gồm quan
hệ sở hữu và quan hệ nhân thân. Để xâm phạm quan hệ sở hữu, người phạm tội phải
có hành vi xâm hại quan hệ nhân thân. Trong đó, quan hệ nhân thân rõ ràng quan
trọng hơn quan hệ sở hữu nên các tội này có cấu thành hình thức, chỉ cần người
phạm tội thực hiện hành vi phạm tội xem như tội phạm đã hoàn thành và dấu hiệu
chiếm đoạt được thể hiện qua mục đích phạm tội. Vì vậy, mục đích chiếm đoạt là
dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của các tội này. Đây là cơ sở phân biệt
các tội này với các tội khác do BLHS quy định có hành vi khách quan tương tự như
hành vi phạm tội của các tội này.
Đối với tội cướp giật tài sản, mặc dù khách thể mà tội này xâm phạm cũng là
quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân nhưng khác với các tội tại các Điều 133, 134,
135 BLHS. Hành vi khách quan do BLHS quy định đối với tội cướp giật tài sản
xâm phạm trực tiếp đến quan hệ sở hữu và qua việc xâm phạm quan hệ sở hữu mới

định trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung trong giai đoạn trước ngày mở phiên
tòa sơ thẩm trong thời hạn cụ thể được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 176 của
BLTTHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009.
Trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Thẩm phán cũng cần
nêu rõ thuộc trường hợp cụ thể nào quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều
179 của BLTTHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 và những vấn đề cụ thể cần
điều tra bổ sung. Đó là: Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với
vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được; khi có căn cứ để cho rằng bị
cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác; hoặc khi phát hiện có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử cũng có thể ra quyết
định yêu cầu điều tra bổ sung, quyết định yêu cầu điều tra bổ sung trong giai đoạn
này cần tuân thủ quy định tại Điều 199 BLTTHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm
2009, quyết định đó phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án và phải
được lập thành văn bản.
Điều tra bổ sung là một chế định TTHS được qui định trong BLTTHS do các

12


cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền quyết định và thực hiện nhằm bảo đảm
việc giải quyết vụ án hình sự khách quan, toàn diện và đúng pháp luật, không làm
oan và bỏ lọt tội phạm.
Chế định trả điều tra bổ sung được BLTTHS 2003 qui định tại các Điều 168,
khoản 1 Điều 166 và Điều 179, khoản 2 Điều 199 của BLTTHS 2003. Việc trả hồ
sơ vụ án để điều tra bổ sung của VKS, Thẩm phán và Hội đồng xét xử của TA được
BLTTHS 2003 cho phép. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, áp dụng các Điều
168, 1 Điều 166, Điều 179 và Khoản 2 Điều 199 Bộ luật TTHS 2003 giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng còn chưa thống nhất dẫn đến tình trạng số án trả điều tra bổ
sung vẫn còn cao. Để hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều lần, kéo dài
thời gian giải quyết vụ án không cần thiết. Ngày 27/8/2010, liên ngành gồm

Theo giáo trình của trường Đại học Luật Hà Nội thì: “ Chứng cứ là những gì
có thật có liên quan đến vụ án hình sự, được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát , Tòa
án dung làm căn cứ để xá định có hay không hành vi phạm tội, người thực hiện
hành vi phạm tội cũng như các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn
vụ án hình sự” [37, tr. 77]. Khái niệm về chứng cứ này đã đưa ra tính liên quan của
chứng cứ với vụ án hình sự, tuy nhiên đối với tính hợp pháp là một trong những
thuộc tính quan trọng của chứng cứ thì khái niệm này không đề cập đến.
Theo giáo trình của Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội thì:” Trong pháp luật
tố tụng hình sự, chứng cứ là những sự việc, hiện tượng, những dấu vết, được Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thu thập trong quá trình điều tra, xét xử theo
đúng tình tự, do pháp luật quy định, để chứng minh là có hay không có hành vi
nguy hiểm cho xã hội, lỗi của người thực hiện hành vi ấy và những tình tiết khác có
ý nghĩa giải quyết đúng đắn vụ án” [31, tr. 21].
Như vậy, khái niệm chứng cứ này chỉ thể hiện được tính khách quan và tính
hợp pháp mà chưa đề cập đến tính liên quan của nó.
Từ khái niệm này cho thấy chứng cứ trong vụ án hình sự trước hết là những
thông tin có thật, được ghi nhận hoặc lưu giữ trong các nguồn do luật định và mang
đầy đủ ba thuộc tính: tính xác thật, tính hợp pháp và tính liên quan.
Theo quy định tại Điều 86 BLTTHS năm 2015 quy định thì: “Chứng cứ là
những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được

14


dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện
hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. “
[23, tr. 86]
Đồng thời theo Điều 87 BLTTHS năm 2015 thì chứng cứ được thu thập, xác
định từ các nguồn: “Vật chứng; Lời khai, lời trình bày; Dữ liệu điện tử; Kết luận
giám định, định giá tài sản; Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét

Để công nhận là chứng cứ, ngoài việc phải thỏa mãn tính khách quan và tính
có liên quan, chứng cứ còn thỏa mãn tính hợp pháp, nghĩa là chứng cứ phải được
thu thập theo trình tự thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Ví dụ, con dao là
vật chứng trong vụ cướp tài sản chỉ được coi là chứng cứ khi nó được điều tra viên
thu giữ theo đúng quy định của BLTTHS (thể hiện trong biên bản khám nghiệm
hiện trường hoặc trong biên bản thu giữ tang vật. [34, tr. 93]
- Những vấn đề cần chứng minh trong các vụ án xâm phạm sở hữu có tính

chất chiếm đoạt.
Trong các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, cần phải chứng
minh được các vấn đề sau:
+ Có hành vi phạm tội xảy ra hay không. Việc chứng minh có hành vi phạm
tội xảy ra hay không là một trong những vấn đề cơ bản , quan trọng, là căn cứ để cơ
quan có thẩm quyền quyết định khởi tố vụ án hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Các
tài liệu, chứng cứ… chứng minh có hành vi phạm tội xảy ra hay không xảy ra cũng
chính là những căn cứ để kiểm sát viên, kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự. Trên
thực tế , có những hành vi xam hại xảy ra nhưng cũng có thể hành vi này không
phải là hành vi phạm tội. Ví dụ: Nguyễn Văn T 15 tuổi, chưa có tiền án, tiền sự, có
hành vi trộm xe đạp của bạn học cùng lớp trị giá 480.00 đồng. Hành vi trộm cắp này
không được coi là hành vi phạm tội, vì theo quy định của BLHS, hành vi của T
không được coi là hành vi phạm tội vì không có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm ( về
tuổi chịu trách nhiệm hình sự, về giá trị tài sản chiếm đoạt).
Nếu không làm rõ vấn đề này mà khởi tố vụ án thì có thể dẫn đến oan sai. Để
làm rõ vấn đề này thì phần lớn các vụ án trong nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt cần phải được khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai người bị
hại, người làm chứng, người có quyền lợi và nghĩ vụ liên quan.
+ Thời gian và địa điểm xảy ra phạm tội. Thời gian và địa điểm xảy ra vụ án
là những vấn đề buộc phải xác định để chứng minh sự tồn tại của tội phạm. Quá

16

khám xet, hỏi cung, lấy lời khai, trưng cầu giám định. Ví dụ: Việc làm rõ người

17


phạm tội có sử dụng hung khí nguy hiểm ( dao sắc nhọn) trong khi dùng vũ lực
nhằm chiếm đoạt tài sản giúp chúng ta điều tra, truy tố, xét xử người đó đúng theo
Khoản 2 Điều 133 BLTTHS 2003 và hiện nay theo Điều 185 BLTTHS 2015.
+ Người bị hại trong vụ án, người làm chứng trong vụ án: Cần làm rõ người
bị hại là ai (Nhà nước hay công dân). Nếu quá trình thực hiện tội phạm, người phạm
tội gây tổn hại đến danh dự, sức khỏe, tính mạng…của người bị hại thì cần làm rõ
về mức độ tổn hại. Đây là cơ sở để cá thể hóa trách nhiệm hình sự, hình phạt, mức
độ bồi thường, nhiều trường hợp là căn cứ của việc định tội, định khung, xem xét
các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị can, bị
cáo.
+ Cần làm rõ ai là người phạm tội, có đồng phạm không: Vị trí và vai trò
của những người phạm tội trong vụ đồng phạm. cần lập lý lịch bị can, danh chỉ bản,
trích lục tiền án tiền sự . Cần làm rõ người phạm tội có năng lực trách nhiệm hình
sự không, phạm tội có tính chất cơ hội hay lưu manh chuyên nghiệp… Làm rõ vấn
đề này có ý nghĩa rất lớn cho việc định tội, định khung hình phạt, lượng hình, đề ra
phương pháp hỏi cung, đấu tranh đối với bị can.
+ Động cơ, mục đích phạm tội tính chất lỗi: Làm rõ động cơ mục đích phạm
tội, như: Có vụ lợi hoặc tư lợi hay không, mục đích chiếm đoạt? Để đánh giá đầy đủ
vấn đề này cần phải dựa trên cơ sở đánh giá đặc điểm hành vi phạm tội, các mối
quan hệ của người phạm tội, mối quan hệ giữa người phạm tội với người bị hại; giá
trị tài sản mà người phạm tội chiếm đoạt , đã gây thiệt hại hoặc định gây thiệt hại,
định chiếm đoạt, ý thức chủ quan của người phạm tội. Ví dụ: Việc xác định rõ động
cơ mục đích của tội phạm sẽ giúp cho người tiến hành tố tụng phân được hành vi
trong tội sử dụng trái phép tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
+ Những đặc điểm thân nhân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ hoặc


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status