Nghiên cứu một số yếu tố liên quan đến dịch vụ y tế cho phụ nữ người dao về khía cạnh văn hóa xã hội tại huyện bạch thông, tỉnh bắc kạn - Pdf 53

Bễ GIAO DUC VA AO TAO
AI HOC THAI NGUYấN

PHAM HNG HAI

NGHIÊN CứU một số yếu tố liên quan đến dịch vụ
y tế cho phụ nữ ngời dao về khía cạnh văn hoá xã hội tại huyện bạch thông, tỉnh bắc kạn

LUậN án tiến sĩ y
học

THAI NGUYấN - 2011


Bễ GIAO DUC VA AO TAO
AI HOC THAI NGUYấN

PHAM HNG HAI

NGHIÊN CứU một số yếu tố liên quan đến dịch vụ
y tế cho phụ nữ ngời dao về khía cạnh văn hoá xã hội tại huyện bạch thông, tỉnh bắc kạn

CHUYấN NGANH: Vấ SINH XA HễI HOC VA Tễ CHC Y Tấ
MA Sễ: 62 72 73 15
LUN AN TIấN S Y HOC
Ngi hng dõn khoa hoc:
1. GS.TS. Pham Huy Dung
2. GS.TS. Hoang Khai Lõp

THAI NGUYấN - 2011



ĐẶT VẤN ĐỀ
Sức khỏe của phụ nữ va trẻ em la những vấn đề quan tâm hang đầu của
các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Phụ nữ la cốt lõi của sự phát
triển kinh tế xã hội. Sức khỏe va cuộc sống của phụ nữ có ý nghĩa quan trọng
đối với gia đình, bản thân va cộng đồng. Hơn thế nữa, đời sống va sức khỏe
phụ nữ la yếu tố cơ bản va có ảnh hưởng trực tiếp tới thế hệ tương lai [4].
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng va Nha nước ta
đã có nhiều chính sách ưu tiên nhằm nâng cao đời sống cho đồng bao các dân
tộc sống ở vùng sâu, vùng xa cũng như đẩy mạnh sự phát triển của miền núi.
Trong đó, sức khoẻ của phụ nữ người dân tộc cang la vấn đề đáng quan tâm
trong chiến lược chăm sóc sức khoẻ nhân dân khu vực miền núi, dân tộc ít
người. Chăm sóc sức khoẻ cho phụ nữ đến nay đã đạt được nhiều thanh tựu
rất quan trọng, nhiều chỉ số cơ bản liên quan đến chăm sóc sức khoẻ sinh sản
đã đạt va vượt mục tiêu đề ra [9], [11], [13], [24]. Tuy nhiên, thực tế cho thấy
sự phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội của khu vực miền núi vẫn còn thấp
hơn rất nhiều so với các khu vực khác của cả nước [12], [24], [65], [66]. Mức
sống thấp, trình độ dân trí chưa được nâng cao, hệ thống giao thông đi lại khó
khăn, điều kiện chăm sóc y tế còn thiếu thốn... la những vấn đề đang đòi hỏi
cần phải có sự đầu tư hơn nữa của Chính phủ cho các dân tộc sống ở những
vùng khó khăn nay, trong đó có tỉnh Bắc Kạn.
Bắc Kạn la một tỉnh miền núi, vùng cao. Theo niên giám thống kê 2009
[8], Bắc Kạn có 295.296 người. Trên địa ban tỉnh có 23 dân tộc, đông nhất la
dân tộc Tay chiếm 54,3%; dân tộc Kinh chiếm 13,3%; dân tộc Dao chiếm
16,5%; dân tộc Nùng (5,4%) va các dân tộc khác.
Huyện Bạch Thông la một trong những huyện mang đầy đủ những nét
đặc trưng của tỉnh Bắc Kạn. Huyện Bạch Thông gồm 1 thị trấn va 16 xã. Tại
đây, người Dao sống tập trung ở một số xã vùng cao như: xã Đôn Phong,




TỔNG QUAN TAI LIỆU
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Định nghĩa văn hóa
Văn hóa la khái niệm mang nội ham rộng với rất nhiều cách hiểu khác
nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất va tinh thần của con người. Do
vị trí của văn hoá trong đời sống nên văn hoá đã được nhiều người quan tâm
nghiên cứu va đưa ra hang trăm định nghĩa về văn hoá [3], [40], [44], [47].
Văn hóa trong tiếng Hán được hiểu la những hình xăm trên cơ thể, qua
đó người khác nhìn vao để nhận biết va phân biệt mình với người khác, biểu
thị sự quy nhập vao thần linh va các lực lượng bí ẩn của thiên nhiên, chiếm
lĩnh quyền lực siêu nhiên.
Theo ngôn ngữ của phương Tây, từ tương ứng với văn hóa của tiếng
Việt (culture trong tiếng Anh va tiếng Pháp, kultur trong tiếng Đức,...) có
nguồn gốc từ các dạng của động từ Latin colere la colo, colui, cultus với hai
nghĩa: (1) giữ gìn, chăm sóc, tạo dựng trong trồng trọt; (2) cầu cúng.
Trong cuộc sống hang ngay, văn hóa thường được hiểu la văn học, nghệ
thuật như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh... Các “trung tâm văn hóa” có ở
khắp nơi chính la cách hiểu nay. Một cách hiểu thông thường khác: văn hóa la
cách sống bao gồm phong cách ẩm thực, trang phục, cư xử va cả đức tin, tri
thức...Vì thế chúng ta nói một người nao đó la văn hóa cao, có văn hóa, văn
hóa thấp hoặc vô văn hóa.
Trong nhân loại học va xã hội học, khái niệm văn hóa được đề cập đến
theo một nghĩa rộng nhất. Văn hóa bao gồm tất cả mọi thứ vốn la một bộ phận
trong đời sống con người. Văn hóa không chỉ la những gì liên quan đến tinh
thần ma bao gồm cả vật chất.
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau [40]:
“Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về
tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người


giới, thuật ngữ dân tộc va thuật ngữ Quốc gia dân tộc chỉ rõ hai khái niệm,
hai phạm trù riêng biệt. Quốc gia dân tộc mang tính lãnh thổ, chính trị, Nha
nước; còn dân tộc lại mang tính lịch sử cộng đồng ngôn ngữ, văn hóa tự nhiên.
Một quốc gia có thể có một hay nhiều dân tộc sinh sống. Trái lại, một dân tộc
cũng có thể phân bố trên lãnh thổ nhiều quốc gia [79].


5

Việt Nam la một nước có nhiều dân tộc. Theo từ điển tiếng Việt, dân tộc
được định nghĩa: “Cộng đồng người hình thành trong lịch sử có chung một
lãnh thổ, các quan hệ kinh tế, một ngôn ngữ văn học và một số đặc trưng văn
hoá và tính cách” [74].
Thuật ngữ dân tộc thiểu số, dân tộc ít người, dân tộc dân số ít la dựa trên
sự so sánh tỷ lệ dân số của từng dân tộc trong mỗi nước để gọi. Ở Việt Nam,
tộc người Việt (dân tộc Kinh) chiếm 82,6% dân số cả nước. Trừ dân tộc Kinh,
các dân tộc còn lại được coi la dân tộc thiểu số.
1.1.4. Một số thuật ngữ khác
Dịch vụ [81]: Dịch vụ được hiểu la những thứ tương tự như hang hóa
nhưng phi vật chất, gồm các tính chất sau:
- Tính đồng thời: Sản xuất va tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời;
- Tính không thể tách rời: Sản xuất va tiêu dùng dịch vụ không thể tách
rời. Thiếu mặt nay thì sẽ không có mặt kia;
- Tính chất không đồng nhất: Không có chất lượng đồng nhất;
- Vô hình: Không có hình hai rõ rệt. Không thể thấy trước khi tiêu dùng;
- Không lưu trữ được: Không lập kho để lưu trữ như hang hóa được.
Dịch vụ y tế [93]: Dịch vụ y tế la một dịch vụ khá đặc biệt. Về bản chất,
dịch vụ y tế bao gồm các hoạt động được thực hiện bởi nhân viên y tế như
khám, chữa bệnh phục vụ bệnh nhân va gia đình.
1.2. Một số đặc điểm văn hóa - xã hội dân tộc Dao liên quan đến sức

thức ăn chủ yếu la thịt ga, thịt lợn được nấu với các loại thuốc nam có tác
dụng nhanh khỏe người, giúp sản phụ có nhiều sữa để nuôi con.
Uống: Thức uống của người Dao trong sinh hoạt hang ngay la nước chè.
Một số loại lá cây có vị thơm mát, dễ uống dùng để chữa bệnh gan, thận, tim
hoặc bổ máu cũng được người Dao chế biến va sử dụng. Loại đồ uống phổ
biến nữa la rượu được ủ bằng men lá. Hầu hết các gia đình người Dao đều
biết nấu rượu va cất giữ rượu. Báo cáo kết quả điều tra y tế quốc gia năm
2001 - 2002 của Bộ Y tế [17] cho thấy: Tỷ lệ uống rượu vùng Tây Bắc, Đông
Bắc va Tây Nguyên cao hơn vùng đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên chưa có
nghiên cứu về tỷ lệ lạm dụng rượu va nghiện rượu được tính chung cho cả
nước.
1.2.4. Tục lệ sinh đẻ và nuôi con
Trước đây, khi sinh con người phụ nữ thường đẻ tại nha va phải tự đỡ đẻ,
rốn trẻ được cắt bằng nứa, khi đẻ khó thì chỉ biết mời thầy cúng về cúng
bái...


7

Những năm gần đây, việc sinh đẻ của người Dao đã có nhiều thay đổi, phụ nữ
khi có thai đã đi khám thai va đến trạm y tế để đẻ. Tai biến sản khoa, tỷ lệ chết
ở trẻ sơ sinh... đã được hạn chế tối đa, dân số người Dao tăng lên rõ rệt.
Sau khi sinh sản phụ được chăm sóc chu đáo, họ thường được ăn cháo
gạo nếp nấu với thịt ga, nghệ hoặc cháo nấu với xương lợn va đu đủ hoặc
cháo gạo nếp nấu với trứng va đu đủ. Sản phụ ăn như vậy trong khoảng mười
ngay, sau đó ăn cơm nóng với trứng luộc, canh đu đủ, rau ngải cứu, đậu tương
hầm, canh gừng. Người Dao không cho sản phụ ăn thức ăn nguội, thịt chua,
hoa quả chua, rau cải... vì họ quan niệm rằng ăn những thứ đó sẽ lam người
mẹ mất sữa va lam cho con mắc một số bệnh [39].
1.2.5. Tín ngưỡng liên quan đến bệnh tật

không dám ra ngoai), kiêng các thức uống từ cây có gai (vì quan niệm cây đó
sẽ lam cho đứa trẻ bị mụn nhọt, ngứa ngáy)...
Kiêng kỵ sau khi sinh: Sau khi sinh, sản phụ kiêng ăn các món ăn nguội,
các loại thịt chua, hoa quả chua, các loại rau có nhiều nước như rau cải, bắp
cải... vì quan niệm rằng ăn những thức ăn đó không tốt sẽ gây ảnh hưởng xấu
đến sức khỏe người mẹ va con, có thể la nguyên nhân gây mất sữa hoặc lam
cho đứa trẻ chê bú sữa mẹ. Kiêng bế con đến chỗ khác trong nha nhất la nơi
đặt ban thờ tổ tiên va khu tiếp khách của nam giới. Kiêng đến gia đình người
khác vì sợ mang theo những thứ “không sạch sẽ” sẽ lam ảnh hưởng đến gia
đình họ. Kiêng người lạ đến nha, cho nên dấu hiệu để nhận biết khi trong nha
có người đẻ la người Dao thường treo canh lá hoặc hoa chuối rừng trước cửa.
Những kiêng kỵ có lợi cho sức khỏe ba mẹ va trẻ em [39].
Khi có thai được 3 - 4 tháng, phụ nữ người Dao chủ động kiêng sinh
hoạt vợ chồng để thai nhi được lanh lặn, tránh tổn thương cho thai va sảy thai.
Trong thời kỳ mang thai, mỗi khi ra khỏi nha, thai phụ phải đội nón vì họ
cho rằng Ngọc Hoang nhìn thấy “người bẩn’’ sẽ trị tội va lam sảy thai. Khi đi
trên đường không được bước qua thừng trâu, chạc ngựa.
Khi có thai người phụ nữ phải kiêng ăn tất cả các loại thịt ôi, thiu va
kiêng ăn nhộng ong, nhộng tằm.
Sau đẻ sản phụ ăn cơm nóng với trứng luộc, canh gừng, uống nước lá
thuốc rồi ăn cơm nếp với thịt ga, thịt lợn.
Khi nha có người sinh đẻ họ dùng lá cây cai trước cửa để cảnh báo người
lạ không được vao.


9

Người Dao ít khi mắng, chửi, đánh đập con cái, không thích nói to tiếng
vì sợ hồn vía trẻ nhỏ bị thất lạc sẽ ốm đau.
Những kiêng kỵ bất lợi cho sức khỏe ba mẹ va trẻ em [39]:


+ Chữa bệnh bị sốt cao: Dùng lá chanh vò ra hoa nước cho người bệnh
uống một vai lần la hạ sốt.
+ Chữa bệnh chướng hơi đầy bụng: Lấy củ canh chì đòi cho vao rượu
ngâm uống vai lần la khỏi. Loại rượu nay uống chữa khỏi bệnh đái dắt.
+ Chữa bệnh đau xương khớp: Lấy cây thanh thảo (bùng leo), lá cây dâu
tằm (phong lốm mòm) đem giã nhỏ trộn với nước vo gạo, rang lửa cho ấm lên
rồi đắp vao chỗ đau.
+ Người bị ngã gãy xương: Dùng lá va thân cây “Tồm bùng lao tòn” va
cây tầm gửi mọc trên cây tre. Hai thứ nay giã nhỏ trộn với nước vo gạo va
rang qua lửa cho ấm lên rồi đắp vao chỗ xương gãy. Trước khi đắp phải nắn
lại chỗ xương bị gãy cho thẳng va dùng nẹp bằng cây mía đỏ (tăm tía xi). Mỗi
ngay thay thuốc 1 lần, khoảng 10 hôm la đỡ đau, khoảng 1 tháng sẽ liền
xương.
+ Chữa bệnh đau thận: Lấy cây tầm gửi mọc trên cây gạo hoặc cây dâu,
cây môn gai (hậu giang gim), cây “choang xi”, tất cả đem thái nhỏ, sắc nước
uống. Sau đó lấy thêm 2 loại lá cây “mắc nai nòm” va “mắc phường nòm”,
giã nhỏ ngâm vao nước vo gạo, rang nóng bọc vao mảnh vải sát vao chỗ phù.
Ngay sát 2 lần, sát từ trên xuống dưới.
+ Chữa rắn cắn: Lấy lá cây khoai môn nhai nát đắp vao chỗ rắn cắn sẽ
khỏi. Ngoai ra, họ dùng lá “tụp bầy” vò nhau, bọc vao mảnh vải hơ nóng trên
lửa xoa vao chỗ rắn cắn va đắp vao chỗ rắn cắn vai lần la khỏi.
+ Chữa rết cắn: Lấy củ cây “tộp rùi” giã nhỏ rồi cho vao lá dong (lòm)
bọc lại hơ trên than hồng cho nóng lên rồi đắp vao chỗ rết cắn, cứ nguội lại
thay, cho đến khi không đau nữa thì thôi.
+ Để phòng bệnh va giữ gìn sức khoẻ hang ngay, người Dao có kinh
nghiệm la khi đi ra ngoai nắng phải đội mũ, đội khăn, đi giầy dép. Khi đông
về giá lạnh, trong nha thường xuyên đốt lửa va dùng nệm ấm khi ngủ.
1.3. Tình hình sức khỏe, sức khỏe sinh sản của phụ nữ
1.3.1. Đặc điểm cơ thể liên quan đến bệnh tật ở nữ giới

vấn; lam mẹ an toan; kế hoạch hoá gia đình; nạo hút thai; sức khoẻ sinh sản vị
thanh niên; các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản bao gồm các bệnh lây
truyền qua đường tình dục (trong đó có HIV/AIDS); các bệnh ung thư sinh
sản, ung thư vú; vô sinh.


12

Sức khoẻ sinh sản nữ vị thành niên
Việt Nam la nước có tỷ trọng dân số vị thanh niên vao hang cao nhất
trong khu vực châu Á, tác động của nền kinh tế thị trường đã lam ảnh hưởng
đạo đức của một bộ phận thanh thiếu niên, không ít vị thanh niên sống buông
thả, ma một trong hanh động đáng báo động la hoạt động tình dục trước hôn
nhân va các hậu quả nghiêm trọng của nó [33], [51], [57], [82], [94].
Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá nguy cơ tử vong do thai sản ở phụ nữ tuổi
15 đến 19 cao gấp 2 lần so với người từ 20 đến 24. Còn những em gái tuổi 10
- 14 nếu có thai thì nguy cơ tử vong cao gấp 5 lần so với tuổi ngoai 20 [95],
[96].
Phụ nữ và nhiễm khuẩn đường sinh sản
Bệnh phụ khoa la bệnh của nữ giới, trong đó tỷ lệ mắc các bệnh nhiễm
khuẩn đường sinh sản va bệnh lây truyền qua đường tình dục khá cao, đặc
biệt la ở những nước chậm hoặc đang phát triển [42].
Kết quả điều tra ở Thái Bình, Hải Phòng, Lâm Đồng, Hậu Giang (cũ), Ha
Sơn Bình (cũ), Ha Tuyên (cũ) cho thấy: Trong cơ cấu bệnh tật của nữ theo độ
tuổi, bệnh phụ khoa chiếm tỷ lệ cao nhất va tăng dần theo độ tuổi sinh sản, cao
nhất la ở độ tuổi 41 - 55, chiếm 60% [1].
Sự thiếu hụt kiến thức, thiếu hụt chăm sóc y tế, cũng như tình trạng mại
dâm hiện nay cũng la những yếu tố rất quan trọng để lam tăng tỷ suất của
bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản (NKĐSS) [73].
Trên thế giới, NKĐSS hay gặp nhất la viêm âm đạo, rồi đến một số bệnh

giật, vỡ tử cung va nạo phá thai.
Tử vong mẹ - nguy cơ hàng đầu của thai sản
Tỷ suất chết mẹ ở Việt Nam đã liên tục giảm. Theo số liệu của tổng cục
thống kê [22], tỷ suất nay đã giảm dần từ 130/100.000 trẻ đẻ ra sống năm
1992 xuống còn 95/100.000 (năm 2000), sau đó tiếp tục giảm đi còn
85/100.000 (năm 2002) va 80/100.000 (năm 2005).


14

Điều tra tử vong mẹ năm 2000 - 2001 do Vụ Sức khoẻ sinh sản - Bộ Y tế
hợp tác với WHO thực hiện ở 7 tỉnh thuộc 7 vùng sinh thái của Việt Nam cho
thấy tỷ suất chết mẹ ở 7 tỉnh nghiên cứu la 130/100.000 trẻ đẻ ra sống [103].
Theo Trần Thị Trung Chiến (2006) [29], có sự khác nhau về chết mẹ giữa
các vùng (269/100.000 ở vùng núi va trung du, 81/100.000 ở đồng bằng), giữa
dân tộc thiểu số va dân tộc Kinh (316 va 81/100.000), giữa nông thôn va
thanh thị (145 va 79/100.000). Nguyên nhân góp phần gây tử vong mẹ la do
chậm trễ đến cơ sở y tế (46,3%), chậm gửi lên tuyến trên do đường giao thông
đi lại khó khăn 41,3%; 40% do điều trị không kịp thời; ngoai ra còn do nhân
viên y tế thiếu năng lực chuyên môn, thiếu thuốc, thiếu trang thiết bị cần thiết...
Trên thế giới, các nguyên nhân trực tiếp gây tử vong mẹ chiếm 80%,
nguyên nhân gián tiếp chiếm 20% [101], [102].
Ung thư ở nữ giới
Theo số liệu thống kê của Bộ Y tế [24], thì tỷ lệ ung thư thường gặp ở
nữ la ung thư cổ tử cung chiếm 20,3%, ung thư vú (16,2%), ung thư dạ day
(10%), đại trực trang (8,3%), ung thư phổi (7,3%).
1.4. Nữ giơi trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế
1.4.1. Hệ thống cung ứng dịch vụ y tế Việt Nam
Ở Việt Nam, hệ thống y tế được chia thanh tuyến Trung ương, tuyến tỉnh
va tuyến y tế cơ sở, trong đó có y tế Nha nước va y tế tư nhân [55], [56].

bệnh viện (gồm 1 bệnh viện đa khoa tỉnh va 7 bệnh viện huyện), 10 phòng
khám đa khoa khu vực, 122 trạm y tế xã phường. Số cán bộ nganh y tế la 1.197
người, trong đó có 354 bác sỹ, 326 y sỹ, 517 y tá. Tỷ lệ trạm y tế xã có
bác sỹ la
59,01%; có nữ hộ sinh la 81,97%; hầu hết các xã đều có nhân viên y tế thôn
bản.
Theo niên giám thống kê y tế năm 2005 [21], tỷ lệ trạm y tế xã có bác sỹ
va nữ hộ sinh của tỉnh Bắc Kạn thấp hơn cả nước nhưng cao hơn so với vùng
Tây Bắc va Tây Nguyên.
1.4.4. Nhu cầu chăm sóc sức khoẻ, tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế
1.4.4.1. Nhu cầu chăm sóc sức khoẻ
Nhu cầu chăm sóc sức khoẻ la sự cần thiết được CSSK theo các vấn đề
sức khoẻ của người dân. Chúng ta cần phân định giữa nhu cầu (need - sự cần
thiết) va cầu (demand - la thể hiện qua ý muốn chủ quan của người bệnh, phụ
thuộc vao sức


16

mua va khả năng chi trả). Quan điểm của Đảng va Nha nước ta trong CSSK
luôn gắn liền với nhu cầu chứ không gắn với sức mua [61]. Theo kết quả của
VNHS
2001 - 2002 [17], bình quân sẽ có 1,5 đợt ốm_người/năm lam ảnh hưởng tới
các hoạt động như đi học, đi lam.
1.4.4.2. Tiếp cận dịch vụ y tế
“Tiếp cận dịch vụ y tế” la khả năng ma người sử dụng dịch vụ y tế
(DVYT) khi cần có thể đến sử dụng DVYT tại nơi cung cấp. Tiếp cận bao
ham cả sự đánh giá, cách nhìn nhận DVYT trong tầm suy nghĩ của người dân
về loại dịch vụ qua các yếu tố không gian, thời gian, chi phí va chất lượng
dịch vụ y tế.

chữa bệnh, sau đó đến y tế tư (22,9%), tiếp đến la trạm y tế xã (13,8%). Nhóm
phụ nữ nông thôn nghèo chọn hình thức tự chữa bệnh cao hơn so với nhóm
phụ nữ có thu nhập từ khá trở lên (55,7% so với 23,7%), ngược lại, nhóm phụ
nữ có thu nhập cao lựa chọn khám chữa bệnh tư (25,9%) cao hơn so với nhóm
có thu nhập thấp hơn (18,1%).
Nha nước cũng như nganh y tế rất quan tâm va đã có nhiều giải pháp về
chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo nhưng cho đến nay chúng ta vẫn chưa
thể giải quyết được căn nguyên của vấn đề [2], [4], [5].
* Dịch vụ y tế: Nhóm nay không đề cập đến giá dịch vụ đắt hay rẻ ma
chỉ đề cập đến tính sẵn có của các dịch vụ ma người dân cần, tính thường trực,
thời gian mở cửa thích hợp, thái độ của cán bộ y tế với bệnh nhân, chất lượng
dịch vụ ma người dân yêu cầu.
Nghiên cứu quá trình cung cấp dịch vụ chăm sóc trước sinh ở huyện Cần
Đước - Long An [62] cho thấy: Yếu tố sẵn có của phương tiện khám thai, viên
sắt, giấy thử albumin niệu... chưa đầy đủ (97%), trong khi đó tất cả phụ nữ
đều có khả năng tiếp cận với dịch vụ. Như vậy, tồn đọng của dịch vụ chăm
sóc sức khoẻ cho phụ nữ có thai trước sinh ở địa phương nay chính la sử dụng
hiệu quả.
Báo cáo của sở Y tế tỉnh Thanh Hoá [63] về tính bao phủ của dịch vụ
chăm sóc trước sinh cho thấy yếu tố sẵn có chỉ đạt 86%, trong khi đó yếu tố
tiếp cận va sử dụng la 100%, tồn đọng của dịch vụ chăm sóc phụ nữ có thai
trước sinh vẫn la tỷ lệ sử dụng hiệu quả (66%).


18

* Văn hoá - xã hội: Trình độ hiểu biết của người ốm, người chủ gia đình
có ảnh hưởng rất lớn tới quyết định xử lý khi bị ốm đau va thông qua đó ảnh
hưởng gián tiếp tới lựa chọn DVYT. Yếu tố văn hoá - xã hội còn chịu sự tác
động của phong tục tập quán: Cúng bái trừ ta ma, kiêng khem, đẻ tại nha,

1.4.4.5. Tình hình sử dụng dịch vụ y tế ở nữ giới
Nghiên cứu của Bùi Thanh Tâm ở Thái Bình [64] cho thấy: Ở Thái Bình
hệ thống y tế của Nha nước mới chỉ thu hút được 54% các trường hợp ốm, có
44,9% chữa bệnh ở trạm y tế xã; 9,77% đến bệnh viện hoặc phòng khám đa
khoa khu vực; 23,13% tự chữa, còn 13,5% không chữa gì.
Tỷ lệ sử dụng dịch vụ y tế cơ bản giữa các nhóm thu nhập khác nhau
không giống nhau, người nghèo có xu hướng sử dụng dịch vụ trạm y tế xã
nhiều hơn các đối tượng khác, trong khi đó người giau có xu hướng sử dụng
dịch vụ tư nhiều hơn [67], [68], [70].
Ở các nước công nghiệp phát triển, nữ giới sử dụng dịch vụ y tế nhiều
hơn nam giới [77].
Ở Việt Nam, liên quan giới va sử dụng dịch vụ y tế còn rất ít tai liệu đề
cập đến. Tuy nhiên, có thể đoán biết rằng trong điều kiện kinh tế xã hội hiện
nay nhiều phụ nữ sống ở khu vực nông thôn miền núi khó có điều kiện tiếp
cận dịch vụ y tế có chất lượng.
Điều tra tỷ lệ sử dụng dịch vụ cơ bản hang năm (không kể bệnh viện)
trên đầu người theo giới va tuổi cho thấy: Ở mọi lứa tuổi, nữ giới đều sử dụng
dịch vụ y tế cao hơn nam giới [70].
Nghiên cứu của Trương Việt Dũng [34], [66] cho thấy: Nữ giới thường
mua thuốc tự chữa bệnh cao hơn nam giới (38,7% so với 25,2%). Trong khi
đó, nam giới có tỷ lệ đến bệnh viện cao hơn nữ giới (23,2% so với 18,1%).
Sử dụng dịch vụ chăm sóc trước sinh
Theo Tổ chức Y tế thế giới, tình hình chăm sóc trước va trong sinh của
phụ nữ ở các nước đang phát triển va các nước phát triển còn thấp so với nhu
cầu. Chỉ có một nửa phụ nữ 15 đến 49 tuổi ở Nam Á va các nước kém phát
triển được khám thai [90]. Trước Cairo (Hội nghị quốc tế về dân số va phát
triển tại Ai Cập), 43% phụ nữ không được khám thai, 15% các trường hợp đẻ
không được y tế hỗ trợ, 43% đẻ tại nha; 46,5% đẻ do ba đỡ dân gian hoặc y tế
thôn bản đỡ, chỉ có 9,2% đẻ do cán bộ tuyến huyện va tỉnh thực hiện. Sau
Cairo thì tình hình sử dụng dịch vụ chăm sóc thai sản đã có sự cải thiện, số

miền Trung, Đông Nam Bộ, thấp nhất la miền núi phía Bắc (73,1%) [23].
Cũng trong báo cáo nay, tình hình tử vong sản phụ còn cao, ma nguyên
nhân chính có liên quan đến cung cấp va sử dụng dịch vụ y tế. Có 90% trường
hợp tử vong mẹ la do thiếu hụt trong hệ thống chăm sóc sản phụ [23].


21

1.5. Công tác khám chữa bệnh tại tuyến y tế cơ sở
1.5.1. Một số nghiên cứu về khám chữa bệnh ở tuyến y tế cơ sở tại Việt
Nam
Theo nhận định của Tổ chức Y tế Thế giới [12], [60]: Mức độ sử dụng
dịch vụ tại trạm y tế xã của chúng ta còn ở mức thấp va trung bình. Trong khi
đó, nhu cầu về chăm sóc sức khoẻ của nhân dân la rất lớn.
Theo kết quả điều tra của Bộ Y tế [9]: Cách xử trí của người dân khi bị
ốm rất khác nhau. Sự lựa chọn cao hơn cả la tự mua thuốc về chữa. Tỷ lệ nay
từ 50% đến 65% với các lý do sau: Bệnh nhẹ 62,23%, ở xa trạm y tế 11,3%.
Nhận xét của người dân về trạm y tế: Không đủ thuốc 65%, không có thuốc
16%, thuốc đắt 21%.
Nghiên cứu về khả năng tiếp cận các dịch vụ CSSK của các hộ gia đình
tại tuyến cơ sở ở 5 huyện thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế (1020 hộ gia đình) cho
thấy [18]: Tỷ lệ tiếp cận y tế cơ sở (YTCS) la 31,8% va tỷ lệ đến trạm y tế
(TYT) để khám chữa bệnh (KCB) khi bị ốm của các hộ gia đình la 12,7%.
Cách lựa chọn KCB của các hộ gia đình khi có người ốm đến TYT la 13,1%,
bệnh viện huyện 15,6%, tự chữa la 18,3%, đến y tế tư nhân 38,9%, có 6,9%
hộ gia đình chữa bệnh bằng hình thức cúng bái. Nghiên cứu nay cũng cho
thấy: Người nghèo thường chọn thầy lang (gấp 3 lần) hoặc mua thuốc tự chữa
(gấp 2 lần so với người giau). Ngược lại, những người giau thường chọn y tế
tư nhân hoặc YTCS va đến bệnh viện. Các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn cơ
sở KCB la chuyên môn giỏi, thái độ phục vụ tốt va gần nha. Các lý do cản trở


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status