THU HÚT ĐẦU TƯ TƯ NHÂN VÀO CÁC DỰ ÁN PPP KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM - Pdf 56

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
---------------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ

THU HÚT ĐẦU TƯ TƯ NHÂN VÀO CÁC DỰ ÁN PPP KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ
GIỚI VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế

VÕ TÙNG ANH

Hà Nội - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
----------------------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ

THU HÚT ĐẦU TƯ TƯ NHÂN VÀO CÁC DỰ ÁN PPP KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ
GIỚI VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

Ngành: Kinh tế học
Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số: 8310106

Họ và tên học viên: Võ Tùng Anh
Người hướng dẫn: PGS, TS Nguyễn Thị Tường Anh

2.2. Kinh nghiệm các quốc gia về hỗ trợ tài chính các dự án PPP ..................44
2.2.1. Đạo luật Tài chính và Đổi mới cơ sở hạ tầng giao thông (TIFIA) ở Hoa
Kỳ

...............................................................................................................44

2.2.2. Quỹ tăng hỗ thanh toán hợp đồng (CPEG) - Mexico ..............................46
2.3. Kinh nghiệm lựa chọn phương thức và đối tác hợp tác công – tư. ..........48
2.3.1 Lựa chọn đối tác tư nhân trong dự án hầm Sydney ở Úc. ........................48


2.3.2 Lựa chọn nhà thầu và phương thức đầu tư PPP ở dự án Dartford, Anh ..50
2.4. Cam kết của chính phủ khi tham gia dự án PPP .......................................54
2.4.1. Cam kết chính phủ trong dự án Bệnh viện Joonalup, Úc ........................54
2.4.2. Cam kết trong dự án PPP Laibin B, Trung Quốc ....................................57
2.5. Nhận dạng và phân bố rủi ro hợp lý trong các dự án PPP .......................63
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG KINH NGHIỆM CÁC NƯỚC TRONG VIỆC THU
HÚT ĐẦU TƯ TƯ NHÂN VÀO CÁC DỰ ÁN PPP Ở VIỆT NAM...................69
3.1. Tình hình triển khai mô hình PPP tại Việt Nam giai đoạn qua ...............69
3.1.1. Tình hình thực hiện các dự án PPP trước năm 2010 ...............................69
3.1.2 Tình hình thực hiện các dự án PPP từ 2010 trở lại đây ...........................71
3.2. Thực trạng thu hút vốn đầu tư tư nhân vào các dự án PPP ở Việt Nam 74
3.2.1. Khung cơ chế chính sách hỗ trợ thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án
PPP ở Việt Nam..................................................................................................74
3.2.2. Cơ chế hỗ trợ tài chính của chính phủ trong việc thu hút vốn đầu tư tư
nhân vào các dự án PPP ....................................................................................78
3.2.3. Quy trình lựa chọn đối tác tư nhân và dự án PPP ở Việt Nam................79
3.2.4. Đánh giá chung về tình hình thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án PPP ở
Việt Nam .............................................................................................................82
3.3. Một số đề xuất thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án PPP ở Việt Nam .85


Xây dựng - Sở hữu - Kinh doanh

BOOT

Xây dựng - Sở hữu - Kinh doanh - Chuyển giao

BOT

Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao

BLT

Xây dựng - Thuê dịch vụ- Chuyển giao

BTL

Xây dựng - Chuyển giao - Thuê dịch vụ

BANOBRAS Ngân hàng phát triển quốc gia Mexico
CA

Hợp đồng nhượng quyền

CARP

Tổ chức liên quốc gia giữa Argentina và Uruguay

CPEG



MOSF

Bộ Chiến lược và Tài chính Hàn Quốc

MRG

Bảo lãnh doanh thu tối thiểu

NSNN

Ngân sách nhà nước

ODA

Hỗ trợ phát triển chính thức

PIMC

Trung tâm Quản lý Đầu tư cơ sở hạ tầng công và tư

PPA

Hợp đồng mua điện

PPIAF

Quỹ Tư vấn Cơ sở hạ tầng nhà nước – tư nhân

PPIP

Hình 3.1: Tỷ trọng số các sự án phân theo hình thức đầu tư (%) ............ 69
Hình 3.2: Tỷ trọng vốn đầu tư các dự án phân theo hình thức đầu tư (%)
......................................................................................................................... 70
Hình 3.3: Tỷ trọng số dự án phân theo lĩnh vực đầu tư (%) và tổng vốn đầu tư
(tỷ đồng)........................................................................................................... 71


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Tóm tắt dòng đầu tư vào các nước đang phát triển theo lĩnh
vực và khu vực. ............................................................................................. 24
Bảng 2.1.Các loại rủi ro và trách nhiệm chia sẻ rủi ro của các bên ......... 67


TÓM TẮT KẾT QUẢ LUẬN VĂN
Trong bối cảnh ngân sách quốc gia của các nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam còn eo hẹp, nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) sụt giảm, việc huy
động sự tham gia của khu vực tư nhân (đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài) vào các
dự án cơ sở hạ tầng là rất cần thiết, mà phương thức hợp tác công – tư (PPP) là một
hình thức thích hợp, đã có lịch sử phát triển lâu dài ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, thực tiễn thí điểm triển khai các dự án theo hình thức PPP ở Việt Nam
đã đạt được một số kết quả nhất định, song cũng còn không ít trở ngại, khó khăn cả
về nhận thức, khuôn khổ thể chế và thực tiễn quá trình triển khai. Trong khi đó, mô
hình PPP đã xuất hiện khá sớm trên thế giới và thực tiễn áp dụng các phương thức
thu hút đầu tư tư nhân trong dự án PPP cũng vô cùng phong phú. Đã có nhiều báo
cáo, tài liệu phân tích cụ thể các đặc điểm và hiệu quả của việc thu hút đầu tư tư
nhân trong dự án PPP tại các quốc gia trên thế giới đã được ban hành và hoàn toàn
có thể học tập tham khảo để ứng dụng vào Việt Nam. Chính vì vậy, việc nghiên cứu
và đúc rút ra kinh nghiệm từ những ví dụ điển hình quốc tế để từ đó đưa ra được
những kiến nghị phù hợp với Việt Nam là hết sức cần thiết.
Trong khuôn khổ bài nghiên cứu này của mình, tác giả đã đưa cơ sở lý luận

phát triển nhanh và nhu cầu về dịch vụ công cũng như cơ sở hạ tầng rất lớn.
Mô hình hợp tác công tư (PPP) trong việc đầu tư nâng cao chất lượng các dịch vụ công
được coi là hướng đi đúng đắn của Việt Nam trong giai đoạn này. Tuy nhiên, trong quá
trình áp dụng thực hiện tại Việt Nam, nhiều khó khăn và thách thức đã bộc lộ rõ nét do
hành lang pháp lý của chúng ta chưa hoàn thiện, cơ chế đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu
tư tham gia dự án còn nhiều bất cập. Kinh nghiệm thực hiện PPP của nhiều nước trên thế
giới cho thấy, việc các luật thiếu thống nhất, thiếu các văn bản hướng dẫn thực hiện và
các cơ chế chia sẻ rủi ro và lợi ích thỏa đáng là những yếu tố góp phần làm các dự án
PPP không còn hấp dẫn trong mắt của các nhà đầu tư tư nhân. Nhận thức được điều đó,
tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu “Thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án PPP, kinh
nghiệm của một số quốc gia thế giới và bài học cho Việt Nam” làm đề tài cho luận
văn tốt nghiệp của mình. Luận văn sẽ đi sâu tập trung vào nghiên cứu về kinh
nghiệm thu hút đầu tư khu vực tư nhân của các nước trên thế giới vào các dự án
PPP, từ đó rút ra kinh nghiệm thực tiễn cho Việt Nam trong quá trình thực thi các
dự án PPP trong tương lai.


2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mô hình PPP xuất hiện trên thế giới khá sớm, và đã được áp dụng trong
nhiều lĩnh vực ở các quốc gia khác nhau. Trong đó, nghiên cứu về việc thu hút đầu
tư tư nhân trong mô hình này cũng đã được nhiều tác giả quốc tế quan tâm, vì đây
chính là động lực thúc đẩy quan trọng cho việc hình thành các dự án. Những nghiên
cứu quốc tế đã giúp tác giả rất nhiều trong việc hoàn thành bài luận văn này có thể
kể đến như “Public-Private Partnership Infrastructure Projects: Case Studies from
the Republic of Korea” của nhóm tác giả Jay-Hyung Kim, Jungwook Kim,
Sunghwan Shin, Seung-yeon Lee (KDI & ADB, 2011) bài nghiên cứu “Current
PPP-Model for the German Federal Trunk Roads, Conference on Applied
Infrastructure Research” của nhóm tác giả Thorsten Beckers, Christian von

đầu tư tư nhân vào các dự án PPP và bài học cho Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học bao gồm:
5.1. Phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu
Việc thu thập tài liệu có liên quan đến nội dung của đề tài có ý nghĩa quan trọng
trong nghiên cứu. Luận văn đã thu thập tài liệu, tư liệu thống kê về thu hút đầu tư tư
nhân vào các dự án PPP ở Việt Nam và các nước khác trên thế giới.
5.2. Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp
Phương pháp phân tích giúp tìm ra được những phương pháp thu hút vấn đầu tư tư
nhân vào các dự án PPP ở các nước. Phương pháp so sánh để có thể thấy được sự
khác biệt trong việc phân chia rủi ro giữa khu vực tư và khu vực công khi tham gia
vào các dự án PPP và những khác biệt khi áp dụng những phương pháp thu hút đầu
tư ở các nứơc vào Việt Nam. Phương pháp tổng hợp trong việc rút ra những bài học
áp dụng cho Việt Nam dựa vào kinh nghiệm các quốc gia trên thế giới.
Trong nghiên cứu, các phương pháp này được sử dụng linh hoạt để giải quyết vấn
đề một cách hiệu quả nhất.
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý thuyết chung về thu hút vốn từ khu vực tư nhân vào đầu tư theo hình
thức đối tác công tư– (PPP
Chương 2: Kinh nghiệm thế giới về thu hút đầu tư tư nhân trong mô hình PPP
Chương 3: Vận dụng kinh nghiệm các nước trong việc thu hút đầu tư tư nhân vào
các dự án PPP ở Việt Nam


4

CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ THU HÚT VỐN TỪ KHU VỰC TƯ
NHÂN VÀO ĐẦU TƯ THEO HÌNH THỨC ĐỐI TÁC CÔNG TƯ– (PPP)
1.1.


5

Phân tích sâu sắc hơn bản chất của sự hợp tác giữa nhà nước và khu vực tư
nhân cho thấy trong mối quan hệ này, nhà nước có thể đóng vai trò như “bên cấp
vốn” (tức là hỗ trợ về vốn, tài sản… cho khu vực tư nhân trong việc cung cấp dịch
vụ công trên cơ sở ký hoặc không ký hợp đồng giữa hai bên). Nhà nước cũng có thể
đóng vai trò là “bên mua dịch vụ” (do tư nhân cung cấp) một cách lâu dài; hoặc
“nhà điều phối” tạo ra những diễn đàn để thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân
(Planning Commission, 2004).
Sự khác biệt giữa PPP và Tư nhân hóa:
Trong mô hình PPP, khu vực tư nhân có vai trò đóng góp rất quan trọng, từ
giai đoạn đầu tiên tới cuối cùng của một dự án. Điều này, trong rất nhiều trường
hợp, tạo ra sự hiểu lầm rằng công trình/dự án/dịch vụ đó đang được Chính phủ thực
hiện việc “tư nhân hóa”. Tuy nhiên, sự thật là PPP và tư nhân hóa có những điểm
khác biệt rất cơ bản.
Về trách nhiệm: Trong tư nhân hóa, trách nhiệm cung cấp và hỗ trợ tài chính
cho một dịch vụ cụ thể nào đó do khu vực tư; trong khi đó, theo cơ chế PPP, trách
nhiệm cung cấp dịch vụ hoàn toàn thuộc về khu vực công.
Về sở hữu, trong tư nhân hóa, quyền sở hữu được Nhà nước bán cho khu vực
tư nhân cùng với những quyền lợi và chi phí, song cơ chế PPP vẫn có thể tiếp tục
duy trì quyền sở hữu của Nhà nước.
Về bản chất của dịch vụ, khi tư nhân hóa, các nhà cung cấp tư nhân sẽ quyết
định phạm vi và phương thức cung cấp dịch vụ, trong khi dưới hình thức PPP,
những vấn đề này được cả hai bên (Nhà nước và tư nhân) quyết định thông qua hợp
đồng.
Về rủi ro và lợi ích, nếu là tư nhân hóa, khu vực tư nhân phải chịu hoàn toàn
rủi ro, trong khi với cơ chế PPP, Nhà nước và tư nhân sẽ cùng chia sẻ cả rủi ro và
lợi ích (Planning Commission, 2004).
1.1.1.2. Cơ sở hình thành và động cơ thúc đẩy Đối tác công tư (PPP)

để đảm bảo dự án khả thi, giảm bớt khó khăn cho tư nhân. Cơ chế hợp tác đã thay
đổi và chuyển dần từ quản lý bằng Luật sang quản lý thông qua hợp đồng. Ngoài
những cách thức hợp tác truyền thống, trong vòng 10 năm qua đã có nhiều biện
pháp, quy định và chính sách để thúc đẩy các mô hình hợp tác công–tư khác nhau.

Động cơ thúc đẩy


7

Theo nghiên cứu của tác giả thì có ba nguyên nhân chính thúc đẩy chính phủ
tham gia vào mối quan hệ đối tác nhà nước - tư nhân là:
Thứ nhất: Thu hút vốn đầu tư tư nhân (thường bổ sung cho nguồn vốn nhà
nước hoặc giải phóng cho nguồn vốn nhà nước để sử dụng vào những nhu cầu khác
của nhà nước). Các chính phủ đối mặt với nhu cầu ngày càng tăng trong việc tìm đủ
nguồn tài chính để phát triển và duy trì cơ sở hạ tầng theo yêu cầu của sự gia tăng
của dân số. Các chính phủ gặp khó khăn bởi nhu cầu đô thị hóa ngày càng tăng, nhu
cầu tu bổ những cơ sở hạ tầng đã được xây dựng lâu năm, nhu cầu mở rộng mạng
lưới dịch vụ cho dân số mới tăng lên và nhu cầu đem lại dịch vụ cho những khu vực
trước đây chưa được cung cấp hoặc được cung cấp chưa đầy đủ. Hơn nữa, các dịch
vụ cơ sở hạ tầng thường có doanh thu thấp hơn chi phí, vì vậy phải bù đắp thông
qua trợ cấp và do đó làm cho nguồn lực nhà nước bị hao mòn thêm. Cùng với khả
năng tài chính hạn chế của chính phủ, những áp lực kể trên dẫn tới mong muốn huy
động vốn từ khu vực tư nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng. Được cơ cấu một cách
phù hợp, mối quan hệ đối tác nhà nước - tư nhân có thể huy động các nguồn lực
trước đây chưa được khai thác của khu vực tư nhân tại địa bàn sở tại, trong khu vực
đang tìm kiếm các cơ hội đầu tư.
Mục đích của khu vực tư nhân trong việc tham gia vào mối quan hệ đối tác
nhà nước - tư nhân là tạo ra lợi nhuận từ năng lực và kinh nghiệm quản lý kinh
doanh của mình (đặc biệt là trong ngành dịch vụ công ích). Khu vực tư nhân tìm

lý riêng biệt. Đặc biệt việc kiểm tra lại các các thoả thuận chính sách và điều tiết
quản lý là những vấn đề tối quan trọng đối với thành công của một dự án PPP.
Theo phân tích trên, ba động cơ để áp dụng hiệu quả mô hình PPP là thu hút
vốn đầu tư tư nhân, gia tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực có sẵn và tạo ra động
cơ cũng như nâng cao trách nhiệm giải trình.
1.1.1.3

Một số đặc điểm của Mô hình Hợp tác Công –Tư (PPP)

Chia sẻ rủi ro (và lợi ích): Forward và Aldis (2009), Kappeler và Nemoz
(2010), Quium (2011) và Planning Commission (2004) đều thống nhất cho rằng
việc chia sẻ hay phân bổ rủi ro (Risk Allocation) là vấn đề trung tâm và là đặc điểm
nổi bật nhất của mô hình PPP. Trong phần dưới đây, nhóm nghiên cứu đi sâu vào
phân tích cụ thể đặc điểm này.
Những rủi ro có thể xuất hiện trong quá trình triển khai dự án được Planning
Commission (2004) tổng kết lại bao gồm:
- Rủi ro trong quá trình xây dựng do những lý do như sự vỡ nợ của nhà thầu,


9

môi trường bị tàn phá.
- Rủi ro về thị trường do những nguyên nhân cầu không tương xứng, mức thuế
sử dụng dịch vụ không thực tế
- Rủi ro về tài chính do sự thay đổi về tỷ giá, lãi suất, thuế tăng lên, do lạm
phát
- Rủi ro trong quá trình vận hành và bảo trì do hợp đồng bị ngừng lại, những
rủi ro về mặt công nghệ hoặc lao động.
- Rủi ro về mặt pháp lý do những thay đổi trong hệ thống luật pháp, do tình
trạng vỡ nợ của nhà cung cấp dịch vụ

Tạo ra nhiều khoản đầu tư hơn cho cơ sở hạ tầng: Với cơ chế PPP, nhà nước
sẽ giảm được gánh nặng phải tìm kiếm, sắp xếp và phân bổ nguồn vốn đầu tư từ
ngân sách cho cơ sở hạ tầng. Bởi vậy, nhà nước có thể tiến hành nhiều dự án đầu tư
hơn hoặc tăng quy mô của các dự án đầu tư cho cơ sở hạ tầng.
Tạo ra sự ổn định và tăng trưởng cho khu vực tư nhân: Với việc tham gia vào
cơ chế PPP, khu vực tư nhân có được nhiều cơ hội đầu tư mang tính dài hạn hơn, ít
rủi ro hơn với sự bảo đảm của Nhà nước. Từ đó, tạo ra sự ổn định và tăng trưởng
cho khu vực tư nhân, thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp địa phương cũng như
tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn cho người lao động (Colverson và Perera, 2012).
Phân bố và quản lý rủi ro tốt và hiệu quả hơn: Bất kỳ một dự án đầu tư nào
đều ẩn chứa những rủi ro, có thể là rủi ro về tài chính, về tiến độ thực hiện, về lợi
nhuận… Ministry of Municipal Affairs (1999), Colverson và Perera (2012) và
European Commission (2003) cho rằng một trong những nguyên tắc cốt yếu của cơ
chế PPP là rủi ro sẽ được phân bố cho bên nào giải quyết tốt nhất, với chi phí thấp
nhất. Với nhiều trường hợp, Nhà nước sẽ là bên có trách nhiệm giải quyết những rủi
ro liên quan tới cộng đồng, môi trường hoặc bảo lãnh vay vốn. Ngược lại, khu vực
tư nhân ưu việt hơn trong việc xử lý những rủi ro liên quan tới quản lý, sử dụng
đồng vốn…
Tiết kiệm chi phí: Thứ nhất, với việc kết hợp hai khâu Thiết kế và Xây dựng
trong cùng một hợp đồng, cơ chế PPP cho phép nhà thiết kế và nhà xây dựng thiết
lập mối liên hệ gần gũi và sâu sắc hơn. So với việc ký hợp đồng riêng biệt cho phần
thiết kế và xây dựng, sự kết hợp này trước hết giúp cho việc thiết kế có tính sáng tạo
cao hơn, tiết kiệm được nhiều chi phí hơn; đồng thời cũng giúp giảm thời gian quá
trình xây dựng, để dịch vụ sớm được đưa vào sử dụng hơn, qua đó cũng giúp tiết
giảm chi phí (Ministry of Municipal Affairs, 1999 và Colverson và Perera, 2012).


11

Thứ hai, hầu hết các dự án PPP cần dịch vụ vận hành và bảo trì trong suốt vòng đời


12

phí có liên quan (cộng với tính toán về lợi nhuận của các khoản đầu tư của đối tác
Tư nhân). Điều này sẽ dẫn tới việc người sử dụng dịch vụ sẽ phải trả mức phí cao
hơn so với sử dụng dịch vụ được cung cấp bởi riêng Nhà nước.
Làm giảm tính cạnh tranh: Các tiêu chuẩn cao khi lựa chọn đơn vị/ nhà đầu tư
tư nhân, chi phí giao dịch và đấu thầu cao cùng với việc phải ký hợp đồng dài hạn là
những yếu tố cần thiết để tham gia cơ chế PPP; và không phải đơn vị/ nhà đầu tư tư
nhân nào cũng có thể đáp ứng được. Colverson và Perera (2012) và Ministry of
Municipal Affairs (1999) cho rằng điều này gây ra hai hậu quả: trước hết, thu hẹp
sự lựa chọn đối tác Tư nhân của Nhà nước; thứ hai, do đó tạo ra thị trường độc
quyền, ít sức ép cạnh tranh để các đối tác Tư nhân được lựa chọn phấn đấu để giảm
chi phí hoặc nâng cao chất lượng dịch vụ.
Thiếu năng lực và những rủi ro chính trị: Cơ chế PPP đòi hỏi cả hai bên Nhà
nước và tư nhân đều phải có năng lực đủ mạnh về PPP, song trong rất nhiều trường
hợp, một hoặc cả hai bên đều không đủ năng lực. Ministry of Municipal Affair
(1999) cho rằng “sự kết hợp của một chính quyền thiếu năng lực, kinh nghiệm và
một đối tác tư nhân không quen thuộc với PPP có thể dẫn tới những rủi ro về mặt
chính trị (cho chính quyền đó). Colverson và Perera (2012) lại quan ngại về một
hiện tượng thiếu năng lực khác, đó là việc mô hình PPP phụ thuộc quá nhiều vào
chuyên gia tư vấn bên ngoài và cả nhà nước và tư nhân không học hỏi được gì qua
quá trình triển khai dự án.
Thách thức mang tên “quyền kiểm soát”: Bản chất của cơ chế PPP chính là
việc chia sẻ rủi ro, lợi ích và quyền quyết định giữa các bên. Đối tác tư nhân với
việc đầu tư về mặt tài chính, công nghệ, nhân lực… cũng có tiếng nói quan trọng
trong việc xác định ai sẽ là người nắm quyền cung cấp dịch vụ (sau khi dự án PPP
hoàn thành). Ministry of Municipal Affairs (1999) quan ngại rằng quá trình hợp tác
sẽ nảy sinh vấn đề tranh giành quyền kiểm soát và khuyến cáo vấn đề này nên được
làm rõ ngay từ giai đoạn đầu của quá trình hợp tác.

- Việc ứng dụng loại hình hợp đồng này thường thích hợp nhất khi dịch vụ có

thể được xác định rõ ràng trong hợp đồng, yêu cầu của cơ quan nhà nước là có thể
thực hiện và việc thực hiện có thể theo dõi một cách dễ dàng. Loại hợp đồng này
thường được áp dụng trong khoảng thời gian từ 1-3 năm, đối với các loại dịch vụ
như: dịch vụ internet, dịch vụ nước sạch,... Phương thức này không phù hợp với
mục tiêu thu hút vốn đầu tư.
-

Hợp đồng quản lý: là hợp đồng giữa cơ quan nhà nước (khu vực công) với


14

đối tác tư nhân, trong đó thoả thuận cho khu vực tư nhân được quản lý một tiện ích
hay dịch vụ công. Mô hình này thường được sử dụng trong các thoả thuận quản lý
từ 3-5 năm.
Nhượng quyền khai thác (Franchise)/cho thuê (Leasing)

1.1.3.2

Phương thức nhượng quyền khai thác, theo nghĩa rộng, là một hình thức tổ
chức thực hiện PPP, trong đó khu vực nhà nước dựa trên các tài sản/cơ sở hạ tầng
do nhà nước xây dựng và sở hữu (sau đây gọi là tài sản/cơ sở hạ tầng sẵn có),
nhượng lại quyền khai thác, kinh doanh cho khu vực tư nhân. Trong mô hình này,
đối tác tư nhân được lựa chọn sẽ được dành quyền vận hành và duy trì dịch vụ
công.
Có hai hình thức cụ thể đối với phương thức này, đó là: Nhượng quyền khai
thác (Franchise) và cho thuê (Leasing).
+ Hình thức cho thuê (Leasing): Với hình thức này, Cơ quan nhà nước cho

thoả thuận cho phép đối tác tư nhân bỏ vốn xây dựng (bao gồm: xây mới, nâng cấp,
phát triển) công trình cơ sở hạ tầng và được phép kinh doanh (vận hành, khai thác)
công trình cơ sở hạ tầng đó trong một thời hạn nhất định nhằm thu lại chi phí đã bỏ
ra và thu một khoản lợi nhuận. Kết thúc thời hạn hợp đồng, đối tác tư nhân phải
chuyển giao không bồi hoàn công trình cơ sở hạ tầng cho khu vực nhà nước. Đây là
một mô hình quan trọng, hữu hiệu để huy động vốn đầu tư từ khu vực tư nhân trong
điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp. Hợp đồng BOT thường là một hợp đồng dài
hạn (khoảng 20-30 năm).
1.1.3.5. Xây dựng - chuyển giao - vận hành (BTO: Build - Transfer - Operate)
Hợp đồng BTO là một hình thức hợp đồng PPP, được ký kết giữa cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và đối tác tư nhân, trong đó đối tác tư nhân bỏ vốn xây
dựng công trình cơ sở hạ tầng, sau khi xây dựng xong công trình, đối tác tư nhân
chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho nhà nước, ngược lại, nhà nước dành cho đối
tác tư nhân quyền khai thác, sử dụng công trình đó trong một thời hạn nhất định.
Phương thức BTO cũng được áp dụng khá phổ biến trên thế giới, trong các lĩnh vực
cơ sở hạ tầng như: đường xá, hệ thống cấp nước, trụ sở của các cơ quan nhà nước,
sân bay…
1.1.3.6 Xây dựng - sở hữu - vận hành (BOO: Build - Own - Operate).
Phương thức BOO là phương thức trong đó khu vực nhà nước và đối tác tư
nhân thoả thuận: đối tác tư nhân bỏ vốn xây dựng tài sản/cơ sở hạ tầng dịch vụ công



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status