Con người dưới góc nhìn của triết học và vấn đề con người trong quá trình đổi mới hiện nay - Pdf 60

Lời mở đầu
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi con
ngời phải đợc đào tạo trình độ học vấn, năng lực ; tu dỡng rèn luyện phẩm chất
đạo đức, ý thức lao động tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu của sự biến
đổi khoa học công nghệ hết sức nhanh chóng.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nớc với những mục tiêu dân giàu, nớc mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hiện nay, con ngời và nguồn nhân lực đợc
coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và
bền vững nền kinh tế nớc ta. Đó là yếu tố hết sức bức thiết và cần có tính cập
nhật, đáp ứng đợc yêu cầu về con ngời và nguồn nhân lực xét trong nớc ta nói
riêng và quốc tế nói chung. Chúng ta khẳng định con ngời vừa là mục tiêu vừa
là động lực của phát triển kinh tế xã hội đồng thời phải là những con ngời có tri
thức và đạo đức. Từ đây mỗi con ngời dần dần về đúng vị trí là một chủ thể
sáng tạo ra các giá trị, bao gồm các giá trị tinh thần và giá trị vật chất, cho bản
thân và cho xã hội. Vì vậy, vấn đề cốt lõi là, ta phải thực hiện chiến lợc GDĐT
nguồn nhân lực, phát triển con ngời một cách toàn diện cả thể lực lẫn trí lực.
Nhiệm vụ của GDĐT là đa con ngời đạt đến những giá trị phù hợp với đặc điểm
văn hoá và những yêu cầu mới đặt ra đối với con ngời Việt Nam để thực hiện
quá trình đổi mới của nớc ta cũng nh xu hớng phát triển kinh tế nói chung trên
thế giới.
Đề tài: Vấn đề triết học về con ngời và con ngời trong quá trình đổi mới
hiện nay
1
Nội dung
Triết học nào cũng phải trả lời bằng cách này hay cách khác câu hỏi: Con
ngời là gì? Con ngời sinh ra từ đâu, hoạt động và phát triển ra sao?
Trớc khi có học thuyết Mác, những cố gắng của t duy triết học nhằm đạt
tới sự hiểu biết về con ngời "cụ thể" hiện thực đều không đem lại kết quả, rốt
cuộc là chủ nghĩa duy tâm vẫn ngự trị trong nhận thức về con ngời và về đời
sống xã hội.
Chỉ đến triết học Mác, vấn đề con ngời mới đợc xem xét một cách nhất

với con ngời, xã hội cũng con ngời, xã hội cũng không phải là cái gì trừu tợng,
bất biến mà mỗi hình thái kinh tế - xã hội chỉ thích hợp với mỗi phơng thức sản
xuất nhất định.Nhân tố quyết định phơng thức sản xuất phát triển lại là lực lợng
sản xuất, bao gồm con ngời và công cụ lao động. Nh thế, không phải cái gì khác
mà chính là con ngời, cùng với những công cụ do họ chế tạo ra, đã quyết định
sự thay đổi bộ mặt xã hội. Vậy xã hội đã sản xuất ra con ngời với tính cách là
con ngời nh thế nào thì con ngời cũng sản xuất ra xã hội nh thế.
Trong khi phê phán những quan điểm của Phoiơbắc, xuất phát từ những
cá thể cô lập C.Mác đã đa ra luận điểm nổi tiếng về bản chất con ngời: "Bản
chất con ngời không phải là cái trừu tợng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con ngời là tổng hoà những quan hệ xã hội".
Luận điểm trên thể hiện những điểm cơ bản sau:
- Khi nói bản chất con ngời là tổng hoà những quan hệ xã hội, cũng có
nghĩa là tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành bản chất con ngời,
nhng có ý nghĩa quyết định nhất là quan hệ sản xuất. Bởi vì, các quan hệ khác
đều trực tiếp hoặc gián tiếp chịu sự quy định của quan hệ này. Mỗi hình thái
kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất nhất định giữ vai trò chi phối, và
chính kiểu quan hệ sản xuất đó là cái xét đến cùng, tạo nên bản chất của con
ngời trong giai đoạn lịch sử đó.
ở đây, cái phổ biến (cái chung của nhân loại) tồn tại và thể hiện qua cái
đặc thù (hình thái xã hội, giai cấp) và cái đơn nhất(cá nhân từng con ngời). Do
đó, khi bàn đến bản chát chung của con ngời không thể gạt bỏ bản chất giai cấp
3
của các tầng lớp khác nhau; và ngợc lại khi nói bản chất giai cấp của các tầng
lớp khác nhau không đợc quên bản chất chung của con ngời. Nhng từ đó quy
bản chất con ngời chỉ còn là bản chất giai cấp và tất cả mọi hoạt động của con
ngời đều đợc giải thích trực tiếp từ đây lại là xuyên tạc thực chất quan điểm
macxít về bản chất con ngời. Đây là một quan hệ không thể tách biệt của các
thứ bậc về bản chất trong con ngời.
- Các quan hệ xã hội không phải chỉ xét ở quan hệ ở từng hình thái xã

riêng lẻ mà là tổng hoà của toàn bộ quan hệ xã hội. Đây là phát hiện có giá trị
to lớn của Mác về bản chất con ngời.
Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành bản
chất con ngời, song không có nghĩa là, chủ nghĩa Mác- Lênin coi nhẹ mặt tự
nhiên, phủ nhận cái sinh vật trong yếu tố cấu thành bản chất con ngời. Bởi vì
theo C. Mác "giới tự nhiên là thân thể của con ngời, thân thể mà với nó con ngời
phải ở lại trong quá trình thờng xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời sống thể
xác và tinh thần của con ngời gắn liền với giới tự nhiên, nói nh thế chẳng qua
chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, vì con ngời là
một bộ phận của giới tự nhiên".
Con ngời và con vật đều có những nhu cầu nh ăn uóng, tính dục , nh ng
C. Mác đã từng vạch ra tính chất khác nhau của những nhu cầu ấy: con ngời
hoạt động theo bản năng, con ngời hành dộng theo ý thức. Và chính mặt xã hội
của con ngời đã làm cho mặt sinh vật trong con ngời phát triển ở trình độ cao
hơn những động vật khác.
Con ngời sống, hoạt động không phải chỉ theo những bản năng di truyền
sẵn có nh các động vật thông thờng mà chủ yếu theo sự phát triển của văn hoá,
của tiến bộ lịch sử - xã hội. Khác con vật, con ngời ngoài chơng trình di truyền,
còn có chơng trình kế thừa về mặt xã hội. Bằng con đờng giáo dục, chơng trình
này truyền lại kinh nghiệm của những thế hệ trớc cho các thế hệ sau. Những đặc
điểm di truyền của từng ngời vừa bảo đảm những thuộc tính sinh học của mình,
vừa bảo đảm để con ngời tiếp thu chơng trình xã hội.
Ngày nay, mối tơng quan giữa mặt sinh vật và mặt xã hội trong sự phát
triển của con ngời vẫn là đối tợng của những cuộc tranh luận khoa học gay gắt.
5
Nhiều nhà khoa học t sản vẫn đem đối lập và tách mặt sinh học khỏi mặt xã hội.
Chẳng hạn, phải duy sinh vật tuyệt đối hoá yếu tố sinh vật trong sự phát triển
của con ngời. Họ tuyên truyền thuyết Đácuyn xã hội. Đại biểu trờng phái này
là: Ph.Nítsơ, Trenherơlen, Klovenơ
Nhiều tác giả nh Liônen Tigơ và Rôbin Phốcxơ cắt nghĩa hành vi của con

giới quan, phơng pháp luận cho hoạt động của con ngời trong thời kỳ lịch sử cụ
thể đó.
Nếu nh cá nhân là khái niệm phân biệt sự khác nhau giữa cá thể với
giống loài, sự khác biệt biểu hiện ra bên ngoài của cá nhân này với cá nhân
khác thì nhân cách là khái niệm để chỉ sự khác biệt những yếu tố bên trong
riêng biệt với toàn bộ hoạt động sống của nó, của cá nhân này với cá nhân khác.
Nhân cách là nội dung, trạng thái, tính chất, xu hớng bên trong riêng biệt của
mỗi cá nhân. Đó là thế giới của "cái tôi" do tác động tổng hợp của các yếu tố cơ
thể và xã hội riêng biệt tạo nên. Mỗi cá nhân "dấn thân" vào cuọc sống, tiếp thu
và chuyển những giá trị văn hoá của xã hội vào bên trong mình, thực hiện quá
trình so sánh lọc bỏ, tự đánh giá, tự tạo nên thế giới riêng của mình. Đâylà quá
trình kép, xã hội hoá cá nhân và cá nhân hoá xã hội, cá nhân xã họi và cá nhân
nhân cách là thống nhất. Với nhân cách riêng, mỗi cá nhân có khả năng ý thức
về mình, làm chủ cuộc sống của mình, tự lựa chọn chức năng, niềm vui và trách
nhiệm hoạt động cụ thể trong xã hội.
Vấn đề cá nhân, nhân cách không giải quyết một cách khoa học nếu
không có phơng hớng triết học rõ ràng giải quyết mối quan hệ cá nhân và xã
hội. Mối quan hệ này đợc giải quyết liên tiếp thông qua tập thể cơ sở. Nó tạo
thành một bộ phận hết sức quan trọng của một cơ thể xã hội hoàn chỉnh. Cá
nhân có nhân cách gia nhập vào tập thể nh là bộ phận của cái toàn thể, thể hiện
bản sắc của mình thông qua hoạt động tập thể, nhng không "hoà tan" vào tập
thể. Đây là mối quan hệ biện chứng bao hàm mẫu thuẫn cá nhân và tập thể. Tuỳ
theo tính chất và khả năng giải quyết những mâu thuẫn đó mà mối quan hệ này
có thể duy trì phát triển hoặc tan rã.
7


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status