Tiểu luận môn SNA - hệ thống tài khoản quốc gia - Pdf 66

A. Phân tích cơ cấu ngành kinh tế và tác động của cá ngành tới
tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001-2005

* Tốc độ tăng trưởng kinh tế 5 năm 2001-2005 tương đối cao và đạt mục tiêu đề ra
(75%). Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước bình quân hàng năm đạt 7,51% cao hơn
nhiều so với tốc độ tăng trưởng bình quân hang năm thời kì 86-90 là 4,45%,đồng thời cũng cao
hơn tốc độ tăng bình quân hang năm 6,95% của kế hoạch 5 năm 1996-2000.
Bảng: Đóng góp của các ngành vào tăng trưởng GDP (2001-2005)
Đơn vị tính : %
Nguồn: tính toán từ số liệu của TCTK và Sổ tay KH 2007(Bộ KH&ĐT)
Hình : Đóng góp của các ngành vào điểm phần trăm tăng trưởng GDP
2001 2002 2003 2004 2005 2001-2005
1. Tốc độ tăng trưởng GDP
- Nông–lâm–thủy sản
- Công nghiệp–xây dựng
- Dịch vụ
6,89
2,98
10,39
6,1
7,08
4,17
9,48
6,54
7,34
3,62
10,48
6,45
7,79
4,36
10,22

8,4
0,8
4,2
3,4
7,5
0,82
3,84
2,84
3. Đóng góp vào tăng trưởng
GDP theo tỷ lệ phần trăm
- Nông-lâm-thủy sản
- Công nghiệp-xây dựng
- Dịch vụ
100
10,07
53,39
36,54
100
13,2
48,95
37,85
100
10,76
53,37
35,86
100
11,8
50,48
37,72
100

80%
90%
100%
2001 2002 2003 2004 2005
Dịch vụ
Công nghiệp và xây
dựng
Nông - lâm và thuỷ sản
- Trong 3 khu vực kinh tế, do luôn chiếm tỷ trọng lớn trong GDP và có tốc độ tăng trưởng
cao nhất (10,65%) nên đến cuối kì kế hoạch 2005 nhóm ngành CN-XD vẫn là khu vực đóng góp
lớn nhất vào tốc độ tăng trưởng chung 49,71% hay 4,2 điểm % tốc độ tăng trưởng GDP, gần bằng
so cới mức trung bình thời kì 2001-2005 là 51,18%.
- Nhóm ngành nông lâm thuỷ sản, do biến động phức tạp và ảnh hưởng khắc nghiệt của
thời tiết 2001-2002: tình trạng lũ lụt, hạn hán, cháy rừng, dịch cúm gia cầm bùng phát và tái phát ,
các vụ kiện cá tra, cá basa 2003 và vụ kiện bán phá giá tôm 2004, giá nông sản tăng cao,... Đã làm
cho tốc độ tăng trưởng của ngành nông lâm thuỷ sản bị hạn chế. Trung bình hang năm 2001-2005
đóng góp của khu vực này không vượt quá 1 điểm %.
- Do vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao nên nhóm ngành dịch vụ đã đóng góp
vào tăng trưởng GDP là 37,7% hay 2,84 điểm % tăng trưởng (Năm 2005 là 40,52% và tăng 3,1
điểm % cao hơn mức trung bình).
* Hiện tượng về tăng trưởng kinh tế của 2 ngành công nghiệp và dịch vụ những năm
2001-2005 và sự đóng góp của nó vào tăng trưởng chung cho thấy thực trạng về chất lượng tăng
trưởng đang có xu hướng tăng lên trong những năm cuối của kì kế hoạch. Bước đầu đã hình thành
được một số ngành sản phẩm quan trọng tạo động lực cho phát triển như : công nghiệp dầu khí,
sản xuất thép xi măng, cơ khí đóng tàu, lắp ráp ôtô xe máy … Cùng với đó là sự giảm tỉ trọng khu
vực nông nghiệp trong cơ cấu từ 23,3% năm 2001 xuống 20,9% năm 2005, đạt tốc độ tăng trưởng
bình quân là 3,8%/năm. Tuy vậy vẫn đảm bảo vấn đề an ninh lương thực, cung cấp sản phẩm cho
nhu cầu tiêu dùng của người dân, công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Đây là sự chuyển dịch cơ cấu theo đúng hướng mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế đến
năm 2010. Tuy nhiên chất lượng tăng trưởng vẫn chưa cao. Khoảng cách giữa giá trị sản xuất và

cho nhu cầu tiêu dung của dân cư, cho công nghiệp chế biến và gia tăng đáng kể kim ngạch xuất
khẩu cho đất nước, đảm bảo ngày một uy tín cả về chất lượng và số lượng, đậưc biệt là các nông
sản chủ lực như: gạo, cà phê, hạt điều, cao su.
GO nông-lâm-thuỷ sản tăng bình quân hàng năm 5.4%, vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra là tăng
4.8%/ năm ( trong đó nông nghiệp tăng 4.1%, lâm nghiệp tăng 1.4%, thuỷ sản tăng 12.1%.)
 Cơ cấu nông lâm thuỷ sản đã chuyển dịch theo hướng giảm dần tỉ lệ trong ngành nông
nghiệp và tăng trưởng trong ngành thủy sản.
Năm 2000, GO ngành nông nghiệp chiếm 79.1% GO khu vực nông-lâm-thuỷ sản nhưng
đến năm 2005, chỉ còn 72.1%.
GO thủy sản tăng từ 16.2% lên 24.2%.
Thuỷ sản đang trở thành ngành mũi nhọn, giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì tốc độ
tăng trưởng của khu vực nông-lâm-thuỷ sản.
2. Cụ thể :
a. Kết quả sản xuất nông nghiệp:
- Mặc dù gặp nhiều khó khăn về thời tiết, dịch bệnh và biến động về giá cả nhưng nhờ có
sự quan tâm và chỉ đạo đúng hướng của Đảng và Chính Phủ nên sản xuất 5 năm qua vẫn đạt được
kết quả tương đối khả quan.
GO nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 4.1% trong đó trồng trọt tăng 3.5%, chăn nuôi
tăng 7.2%.
Sản xuất nông nghiệp ngày càng phát triển và tăng trưởng ổn định, từng bước vươn tới một
nền nông nghiệp hàng hoá với kỹ thuật tiên tiến và cơ cấu đa ngành, không chỉ đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia và cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến mà còn tăng cường cung
cấp hàng hoá cho xuất khẩu cả về số lượng và chất lượng trên trường quốc tế. Sản lượng lương
thực tăng bình quân mỗi năm 1,1 triệu tấn từ 34,3 triệu tấn ( bình quân đầu người đạt 435,5kg năm
2001) đã tăng lên đến 39,9 triệu tấn ( bình quân đầu người 480kg vào năm 2005). Riêng năm 2005
đã xuất khẩu 5,2 triệu tấn gạo, chiếm 30% sản lượng.
- Chăn nuôi tăng nhanh nên tăng trưởng trong chăn nuôi trong tổng GO tăng từ 19.3%
( 2000)  22.4% ( 2003)  21.6% ( 2004)  23.4% ( 2005).
Sản lượng sản phẩm chăn nuôi đa dạng hơn về chủn loại: ngành chăn nuôi trong những
năm qua phải đương đầu với nhiều khó khăn thách thức do thiên tai, dịch bệnh hoành hành ( đặc

tốc độ tăng nhanh hơn khai thác nên tỷ trọng sản lượng thuỷ sản nuôi trồng đã tăng từ 26.2% năm
200 lên 41.9% năm 2005. Điều đáng chú ý là mặc dù vụ kiện bán phá giá cá basa (2003) và tôm
(2004) nhưng sản phẩm thủy sản xuất khẩu của Việt Nam liên tục tăng lên qua các năm từ mức
1816 triệu đôla (2001) lên đến 2771 triệu đôla (2005).
GO thuỷ sản tăng bình quân mọi năm trong giai đoạn 2001-2005 đạt 12.1% là tốc độ tăng
cao nhất trong khu vực nông lâm thuỷ sản những năm vừa qua.
Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản tăng nhanh trước hết là do tăng diện tích, nhưng mặt khác
còn do tăng cường đầu tư và nuôi thâm canh. Việc tăng diện tích nuôi trồng thuỷ sản do chủ
trương chuyển đổi phần diện tích trồng lúa cho năng suất, hiệu quả thấp sang nuôi trồng thuỷ sản,
tập trungnhiều ở đồng bằng song Cửu Long.
Đáng chú ý là trong nuôi trồng thuỷ sản những năm 2001-2005 có sự chuyển đổi mạnh mẽ
về cơ cấu thuỷ sản nuôi trồng theo xu hướng tăng diện tích nuôi tôm nhanh hơn so với tăng diện
tích nuôi cá.
Khai thác thuỷ sản trong 5 năm qua tăng ổn định do tăng đầu tư cho phương diện đánh bắt,
xây dựng các cơ sở hạ tầng thuỷ sản và triển khai thực hiện chương trình đánh bắt xa bờ trong bối
cảnh nguồn lợi thuỷ sản nội địa và ven biển ngày càng cạn kiệt. Đây là hướng đi tích cực trong
khai thác thuỷ sản những năm vừa qua, khuyến khích người dân vươn xa hơn và sử dụng các
phương tiện đánh bắt kỹ thuật cao hơn, khắc phục được tình trạng đánh bắt hải sản ven bờ với
thuyền thủ công hoặc tàu công suất nhỏ, năng suất thấp, mở ra triển vọng làm giầu cho cư dân
vùng ven biển.
Những kết quả sản xuất nông lâm thuỷ sản đạt được trong những năm 2001-2005 bắt
nguồn từ nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân về tổ chức, quản lý sản xuất với sự hình
thành những mô hình sản xuất hang hoá phù hợp với thực tiễn nước ta như: mô hình chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, vật nuôi, mô hình kinh tế trang trại đa ngành, Mô hình Hợp Tác Xã nông nghiệp
thực hiện các dịch vụ phục vụ kinh tế…..Từ đó đã huy động được ngoại lực của nhiều thành phần
kinh tế và nhiều chủ sở hữu.
3. Bên cạnh những kết quả và tiến bộ nêu trên, sản xuất nông lâm thuỷ sản thời kỳ
2001-2005 vẫn còn tồn tại nhiều khắc phục:
Một là, cơ cấu nội bộ khu vực nông lâm thuỷ sản tuy đã có sự chuyển biến tích cực theo
hướng tăng trưởng trong ngành thuỷ sản và giảm tỷ trọng trong ngành nôngnghiệp, nhưng sản xuất


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status