Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan của người bệnh ung thư có điều trị bằng hóa chất tại bệnh viện trung ương thái nguyên năm 2018 - Pdf 74

TÓM TẮT

Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan của người bệnh ung thư có điều
trị bằng hóa chất tại bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2018
Mục tiêu: Đánh giá chất lượng cuộc sống và tìm hiểu một số yếu tố liên
quan đến chất lượng cuộc sống của người bệnh ung thư có điều trị bằng hóa chất
tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2018.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được
thực hiện từ tháng 01/1/2018 đến 30 tháng 03 năm 2018. Đánh giá chất lượng cuộc
sống của 150 người bệnh ung thư có điều trị hóa chất, bằng bộ câu hỏi đo lường
chất lượng cuộc sống cho người bệnh ung thư chung (Functional Assessment of
Cancer Therapy-General FACT-G) của FACIT phiên bản 4 năm 2007 bản dịch
tiếng Việt.
Kết quả: Chất lượng cuộc sống của đối tượng nghiên cứu ở mức thấp, điểm
trung bình chất lượng cuộc sống (CLCS) là 52,40 trên tổng điểm 108 (SD = 14,70).
Điểm trung bình từng lĩnh vực: Tình trạng sức khỏe là 10,07/28 điểm (SD = 3,91),
tình trạng giao tiếp với gia đình/ xã hội là 17,05/28 điểm (SD = 3,84), tình trạng
tinh thần là 12,50/24 điểm (SD = 4,50), tình trạng chức năng là 12,71/28 điểm (SD
= 4,50). Khảo sát mối tương quan cho thấy các yếu tố tuổi, giai đoạn bệnh và số
chu kỳ điều trị trước có mối tương quan nghịch, trong khi hỗ trợ xã hội, thu nhập
bình quân tương quan thuận với CLCS; về yếu tố bệnh, người bệnh mắc ung thư
đường tiêu hóa, điều trị bằng hóa chất + xạ trị có CLCS thấp hơn các nhóm cịn lại
(p < 0,05); về tình trạng hơn nhân, người bệnh ung thư bị mất vợ/ chồng có CLCS
thấp hơn các nhóm cịn lại (p < 0,001).
Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy CLCS của người bệnh ung thư ở mức
độ thấp và cần được cải thiện, đặc biệt là ở lĩnh vực sức khỏe và tinh thần. Các
nghiên cứu trong tương lai có thể xem xét chiến lược tác động vào các yếu tố như
hỗ trợ xã hội, chăm sóc về tinh thần có thể cải thiện chất CLCS của người bệnh ung
thư hóa trị.



Đây là luận văn do chính tơi trực tiếp thực hiện nghiên cứu dưới sự hướng
dẫn của TS.Nguyễn Hoàng Long - Giám đốc phát triển chương trình điều dưỡng Dự án Đại học VinUni
Cơng trình nghiên cứu này khơng trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác
đã được công bố ở Việt Nam.
Các số liệu và thơng tin trong nghiên cứu hồn tồn chính xác, trung thực và
khách quan. Đã được đồng ý thu thập và xác nhận của cơ sở nơi mà tơi thực hiện
việc thu thập số liệu.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về những cam đoan này !
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 8 năm 2018
Tác giả

Nguyễn Thị Hoài


MỤC LỤC

TÓM TẮT ............................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ ii
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .............................................................................. iv
DANH MỤC BẢNG .............................................................................................. v
DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ ........................................................................... vi
ĐẶT VẤN ĐỀ........................................................................................................ 1
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ................................................................................... 3
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ..................................................................... 4
1.1. Bệnh ung thư và hóa trị liệu trong điều trị bệnh ung thư .................................. 4
1.2. CLCS và CLCS của bệnh nhân ung thư ......................................................... 10
1.3. Các yếu tố liên quan đến CLCS của bệnh nhân ung thư ................................. 12
1.4. Học thuyết áp dụng trong nghiên cứu ............................................................ 16
1.5. Giới thiệu địa bàn nghiên cứu ........................................................................ 18

Phụ lục 2: THƯ ĐỒNG Ý CHO SỬ DỤNG BỘ CÔNG CỤ ....................................
Phụ lục 3: CÔNG CỤ THU THẬP SỐ LIỆU ............................................................
Phụ lục 4: DANH SÁCH BỆNH NHÂN THAM GIA NGHIÊN CỨU .....................


iv

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CID (Chemotherapy Induced Diarrhea):
CINV (Chemography induced nausea

Tiêu chảy gây ra do hóa trị liệu
Nơn và buồn nơn gây ra do hóa trị liệu

and vomiting):
CLCS

Chất lượng cuộc sống
Chất lượng cuộc sống liên quan đến sức

HRQOL (Health related quality of life):
TNM (Tumor; Node; Metastasis):
UICC (The Union for International

khỏe
Khối u, cục, di căn
Hiệp hội phòng chống ung thư Quốc tế

Cancer Control):
UT

Bảng 3.9: Chất lượng cuộc sống phân theo tình trạng hơn nhân (n = 150). .......... 35
Bảng 3. 10: Chất lượng cuộc sống phân theo loại ung thư ( n= 150). .................... 35
Bảng 3. 11: Chất lượng cuộc sống phân theo phương pháp điều trị (n= 150). .. 36


vi

DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Hình 1.1: Mơ hình khái niệm Sức khỏe liên quan tới chất lượng cuộc sống. ..............
.............................................................................................................................. 17
Biểu đồ 3.1. Biểu đồ phân bố nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu (n = 150) ........
.............................................................................................................................. 28
Biểu đồ 3.2. Biểu đồ thu nhập bình quân /tháng của đối tượng nghiên cứu (n = 150)
.............................................................................................................................. 29
Biểu đồ 3.3. Biểu đồ về tình trạng hơn nhân của đối tượng nghiên cứu (n = 150)......
.............................................................................................................................. 29


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư là một bệnh đang rất phổ biến trên thế giới cũng như tại Việt Nam.
Ung thư có tỷ lệ mắc và tỷ lệ chết ngày càng tăng, trên thế giới ước tính 14,1 triệu
người năm 2014 [63]. Tại Việt Nam mỗi năm có khoảng 94.000 người tử vong vì
ung thư, số người mắc ung thư tại Việt Nam đang có xu hướng tăng nhanh, từ
68.000 ca năm 2000 lên 126.000 ca vào năm 2010. Dự kiến con số này sẽ vượt
190.000 ca vào năm 2020[3].
Ngày nay, có nhiều phương pháp mới trong điều trị ung thư. Tuy nhiên, hóa
trị vẫn là một trong những phương pháp quan trọng trong điều trị ung thư. Bệnh
nhân được hóa trị liệu trải qua một loạt các phản ứng phụ đáng lo ngại làm ảnh

Ở Việt Nam chưa có nhiều các cơng trình nghiên cứu đánh giá chất lượng
cuộc sống của bệnh nhân ung thư điều trị hóa chất. Tại tỉnh Thái Ngun chúng tơi
chưa tìm thấy nghiên cứu nào đánh giá được mức độ và tìm hiểu các yếu tố liên
quan tới CLCS của bệnh nhân ung thư điều trị hóa chất, mặc dù, trung tâm Ung
bướu, bệnh viện Trung ương Thái Nguyên là nơi tiến hành hóa trị liệu cho rất nhiều
bệnh nhân ung thư ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Nói cách khác, câu hỏi là thực
trạng chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư hóa trị ở khu vực này ra sao và
có những yếu tố nào liên quan tới nó vẫn chưa được tìm hiểu thích đáng. Vì vậy,
nhóm nghiên cứu tiến hành nghiên cứu đề tài “Chất lượng cuộc sống và một số yếu
tố liên quan của người bệnh ung thư có điều trị bằng hóa chất tại bệnh viện
Trung ương Thái Nguyên năm 2018”.


3

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Đánh giá chất lượng cuộc sống của người bệnh ung thư có điều trị bằng hóa chất
tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2018.
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người bệnh ung
thư có điều trị hóa chất tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2018.


4

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Bệnh ung thư và hóa trị liệu trong điều trị bệnh ung thư
1.1.1. Đại cương về bệnh ung thư
* Bản chất bệnh ung thư
Ung thư là bệnh lý “ác tính” của tế bào. Khi bị kích thích bởi tác nhân sinh

thiết lập như hút thuốc, thừa cân, không vận động và thay đổi mơ hình sinh sản liên
quan đến đơ thị hóa và phát triển kinh tế. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới
ước tính có khoảng 14,1 triệu ca ung thư mới và 8,2 triệu ca tử vong xảy ra vào năm
2012 trên toàn thế giới. Trong những năm qua, gánh nặng đã chuyển sang các nước
kém phát triển hơn, hiện chiếm khoảng 57% số trường hợp và 65% tử vong do ung
thư trên toàn thế giới.
Ung thư phổi là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho bệnh ung thư ở nam
giới ở cả những nước đang phát triển và đã vượt qua ung thư vú như là nguyên nhân
hàng đầu gây tử vong ở phụ nữ ở các nước phát triển; ung thư vú vẫn là nguyên
nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư ở nữ giới ở các nước kém phát triển hơn.
Các nguyên nhân gây tử vong hàng đầu khác ở các nước phát triển bao gồm ung thư
đại trực tràng ở nam giới và nữ giới; ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới. Ở các nước
kém phát triển, ung thư gan và dạ dày ở nam giới; ung thư cổ tử cung ở nữ giới
cũng là những nguyên nhân gây tử vong do ung thư.
Các yếu tố nguy cơ liên quan đến các nguyên nhân gây tử vong do ung thư
bao gồm việc sử dụng thuốc lá (ung thư phổi, ung thư đại trực tràng, dạ dày và ung
thư gan), thừa cân / béo phì và khơng hoạt động thể chất (ung thư vú và ung thư đại
trực tràng), nhiễm trùng (ung thư gan, dạ dày và ung thư cổ tử cung). Một phần
đáng kể các trường hợp ung thư và tử vong có thể được ngăn ngừa bằng cách áp
dụng rộng rãi các biện pháp phòng ngừa hiệu quả, chẳng hạn như kiểm soát thuốc
lá, tiêm vắc xin, và sử dụng các xét nghiệm phát hiện sớm.
1.1.2.2. Tại Việt Nam [22]
Theo báo cáo của Tổ chức y tế thế giới về các bệnh không lây nhiễm tại Việt
Nam năm 2011 cho thấy: tỷ lệ mới mắc UT ở Việt Nam tăng 50% trong giai đoạn


6

từ năm 2001-2003 và năm 2010. Mỗi ngày ở Việt Nam có khoảng 350 trường hợp
UT được xác định và 190 trường hợp tử vong. Trong đó, các loại UT phổ biến nhất

trung tâm thần kinh sọ để kích hoạt các cơ quan có liên quan với phản xạ nơn, cụ
thể là các cơ bụng, cơ hoành, dạ dày và thực quản[30].
- Hậu quả:
Nôn và buồn nôn là những tác dụng phụ nghiêm trọng của hóa trị. Những tác
dụng phụ này ảnh hưởng đáng kể tới chất lượng cuộc sống và sự tuân thủ điều trị
của bệnh nhân. Cường độ và thời gian của nơn và buồn nơn đều có ảnh hưởng lớn
đến chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư [30].
Nghiên cứu của Sánchez năm 2013 chỉ ra có khoảng 59,6% bệnh nhân ung
thư qua hóa trị có triệu chứng nơn và buồn nôn [58]. Trong nghiên cứu của Silvia
Sommariva cho thấy có 67 nghiên cứu về ảnh hưởng của nơn và buồn nôn đến
CLCS bệnh nhân ug thư. Mặc dù có nhiều lựa chọn điều trị, nơn và buồn nơn được
tìm thấy có ảnh hưởng mạnh đến CLCS bệnh nhân ung thư [61].
+ Tiêu chảy và táo bón (Chemotherapy Induced Diarrhea – CID)
* Tiêu chảy:
Triệu chứng này liên quan nhiều tới tác dụng phụ của hóa trị, xạ trị hơn là do
chính bệnh lý ung thư CID xảy ra 50% - 80% tổng số bệnh nhân tùy theo phác đồ
điều trị. CID gặp nhiều phác đồ với 5-fluorouracil bolus, số lần bị tiêu chảy cao gặp
nhiều trong phác đồ với irinotecan [19].
Cơ chế gây tiêu chảy tùy từng phác đồ điều trị, với irinotecan được chuyển
hóa ở gan với sản phẩm là 7-ethyl-10hydroxycamptothecin (SN38). SN38 một phần
vào máu và đào thải ra ngoài qua nước tiểu, một phần glucosid thành SN38glucuronide( SN38G) vào mật và được bài tiết ra ruột. Tại đây SN38G gây tổn
thương trực tiếp các tế bào ruột tại bờ tự do ngăn cản hấp thu nước, điện giải và gây
tăng tiết chất nhờn. Đồng thời SN38G tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn phát
triển làm gia tăng tổn thương biểu mô ruột và làm tiêu chảy nặng hơn. Ngồi ra,
irinotecan kích thích q trình tự chết của biểu mô, teo vi nhung mao giảm hấp thu
nhưng tăng tiết nhầy càng làm nặng hơn tình trạng tiêu chảy [62].
* Táo bón:


8

9

Là tình trạng giảm tiết nước bọt với lưu lượng dưới 0,1ml/phút. Có khoảng 40
% bệnh nhân hóa trị có khô miệng sau từ hai đến tám tuần điều trị. Biểu hiện qua
các triệu chứng như nứt môi, teo nhú lưỡi, cảm giác bỏng rát trong miệng. Nguyên
nhân do hóa chất và sản phẩm chuyển hóa của nó cạnh tranh thụ thể của các chất
dẫn truyền thần kinh phó giao cảm – Acetylcholin. Hệ phó giao cảm lại có vai trị
trong kiểm sốt các tuyến nước bọt, khi bị ức chế sẽ làm giảm tiết nước bọt và dẫn
đến khô miệng [46].
+ Viêm niêm mạc miệng
Thường xuất hiện sau hóa trị 2-14 ngày với các tổn thương ban đỏ, loét kèm
theo đau rát và có thể nhiễm trùng. Các triệu chứng nuốt khó, nuốt đau cũng có thể
xuất hiện gây hạn chế trong ăn uống, ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống. Do hóa
chất tác động đến chu kỳ tế bào đặc biệt là các mơ tế bào có chu kỳ ngắn hay thay
đổi như biểu mô niêm mạc miệng. Thêm vào đó ảnh hưởng gián tiếp của hóa trị do
suy tủy hoặc ức chế miễn dịch càng làm cho viêm, nhiễm trùng dễ dàng phát triển.
Nghiên cứu của Rajesh chỉ ra 303 trên tổng số 599 bệnh nhân (51%) hóa trị có tình
trạng viêm niêm mạc miệng [46]. Có 75-80% bệnh nhân nhận liều hóa trị cao trước
khi cấy ghép tủy có viêm niêm mạc miệng [68].
+ Nuốt khó
Nuốt là động tác phức tạp cần sự phối hợp của khoang miệng, lưỡi, hầu họng
và thực quản với 50 cơ và 6 dây thần kinh chi phối [56]. Bởi thế, thường gặp nuốt
khó trong ung thư hầu họng và thực quản. Nuốt khó, nuốt đau xảy ra sau hóa trị
phần nhiều liên quan tới các triệu chứng khô miệng, nhiệt miệng, viêm lưỡi…Quản
lý chứng nuốt khó ở bệnh nhân ung thư đầu và cổ là vấn đề rất khó khăn [59].
+ Mệt mỏi
Nghiên cứu của Karthikeyan G cho thấy mức độ mệt mỏi nặng nề phổ biến
hơn trong hóa trị 98,3%, hóa trị và xạ trị cùng một lúc 78,57%, với xạ trị là 45%.
Mức độ nghiêm trọng của mệt mỏi có mối liên quan đến chất lượng cuộc sống của
người bệnh ung thư [44]. Hóa chất dùng trong hóa trị qua hàng rào máu não gây

về thể chất, tình cảm, xã hội và nhận thức, và quan trọng là các triệu chứng bệnh và
các phản ứng phụ của điều trị [47].


11

Như vậy, chất lượng cuộc sống là một khái niệm đa chiều rộng mà thường
bao gồm những đánh giá chủ quan của cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực của
cuộc sống. Thuật ngữ "chất lượng cuộc sống" đối với mọi người và mọi ngành có
thể quan niệm rất khác. Do đó, trong nghiên cứu này, chất lượng cuộc sống được sử
dụng để đánh giá các nhận thức của bệnh nhân về tình trạng sức khoẻ, khả năng
giao tiếp với gia đình/xã hội, tình trạng tinh thần, chức năng bị ảnh hưởng bởi hóa
chất trị liệu.
1.2.2. Phương pháp đo lường CLCS
Trong khi có bằng chứng ngày càng tăng về giá trị của việc đánh giá CLCS,
một trong những nhiệm vụ thực sự khó khăn nhất là đo lường nó. CLCS là chủ quan
và là một thách thức để đo lường. Nhiều thành phần, chẳng hạn như chức năng xã
hội và tâm linh, không thể được quan sát trực tiếp. Do đó, chúng được đo bằng các
mơ hình đo lường cổ điển. Quá trình đo lường dựa trên nhiều nguyên tắc khác nhau,
bao gồm cả tâm lý học và thống kê. May mắn thay, đa số các nhà nghiên cứu nhận
ra rằng khi đo lường chất lượng cuộc sống, điều quan trọng là phải tập trung rất rõ
ràng vào những lĩnh vực cụ thể quan trọng đối với bệnh nhân ung thư, sự khơng rõ
ràng trong cách tiếp cận có thể dẫn đến những khó khăn trong việc giải thích [13].
Việc sử dụng bảng hỏi bệnh nhân đã được báo cáo đã trở thành một thực hành
chuẩn trong việc đánh giá CLCS bệnh nhân ung thư.
Hiện nay, có nhiều bộ cơng cụ đánh giá CLCS của bệnh nhân nói chung và
bệnh nhân ung thư nói riêng. Một số bộ cơng cụ được sử dụng rộng rãi như SF – 12
và SF – 36 (Medical Outcomes Study Short Forms), SIP (Sickness Impact Profile),
QOWBS (Quality of Well-being Scale)….Ngoài ra, với bệnh nhân ung thư đã có rất
nhiều bộ cơng cụ để đánh giá CLCS đối với ung thư chung và đối với từng loại ung

trên 563 bệnh nhân chăm sóc giảm nhẹ cho thấy điểm chất lượng cuộc sống chung
của những bệnh nhân này là 50,5 (SD = 23,3) [34]. Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng
của cisplatin và paclitaxel đối với vị giác và mối quan hệ của chúng với chất lượng
dinh dưỡng và sức khoẻ liên quan đến chất lượng cuộc sống ở những bệnh nhân ung
thư phổi không phải là tế bào nhỏ, chỉ ra rằng CLCS tồi tệ hơn và giảm lượng chất
dinh dưỡng ở những bệnh nhân này [65].


13

Một nghiên cứu khác về CLCS bệnh nhân ung thư vú điều trị bằng hóa trị cho
kết quả CLCS đã bị ảnh hưởng vừa phải và tiêu cực (điểm số CLCS trung bình là
63,89 ± 16,48). Trong đó: Sức khoẻ tình cảm là lĩnh vực bị ảnh hưởng tiêu cực nhất,
với điểm số là 11,90 ± 4,68. Sức khoẻ thể chất bị ảnh hưởng tiêu cực bởi các phản
ứng phụ hóa trị liệu và mệt mỏi (1,87 ± 0,89) [15]. Theo nghiên cứu của Hellie
Lithoxopoulou và cộng sự (2014) thì bệnh nhân hóa trị liệu lần đầu có những suy
giảm đáng kể về sức khỏe thể chất (p < 0.0001) [48]. Adriana Cristina Nicolussi
(2014), nhận thấy rằng các phản ứng phụ của bệnh nhân liên quan đến hóa trị liệu là
55,9% với các triệu chứng thể chất như: nóng, đổ mồ hơi, mệt mỏi, yếu đuối và
chóng mặt, trong số đó những người có triệu chứng liên quan đến dạ dày ruột,
chẳng hạn như: buồn nôn và nôn mửa, táo bón hoặc tiêu chảy là: các triệu chứng về
dạ dày-ruột 14,5%; các triệu chứng thể chất 5,9% và 0,7% phàn nàn về các triệu
chứng về thể chất và dạ dày - ruột [52].
Ngồi ra, những nghiên cứu cịn chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng tới CLCS của
bệnh nhân ung thư. Fernández-Ortega (2012) khi nghiên cứu về nôn và buồn nơn ở
bệnh nhân hóa trị thấy rằng mặc dù sử dụng thuốc nhưng bệnh nhân vẫn buồn nôn
và nôn đáng kể trong suốt chu kỳ hóa trị (31%), trong đó: có 44,5% (buồn nơn) và
39,3% (nơn) của chu kỳ ảnh hưởng đến CLCS bệnh nhân [30]. Heydarnejad MS
(2011) cho thấy CLCS thấp hơn ở những bệnh nhân bị đau so với những người
khơng có cơn đau. Ngồi ra, các phân tích thống kê chỉ ra rằng có một mối quan hệ

chất lượng cuộc sống với các đặc điểm nhân khẩu học, giai đoạn bệnh, loại điều trị
đã được thực hiện trong quá khứ và thời gian từ lần điều trị cuối cùng. Các phương
pháp thống kê được sử dụng là bởi các tương quan của Pearson, các T-test và phân
tích Anova và nhiều phân tích hồi quy đa chiều (stepwise). Nghiên cứu chỉ ra rằng
các yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khoẻ là tuổi, giai
đoạn của ung thư, xạ trị và mệt mỏi. Các điểm quy mơ chức năng quan trọng hơn
trong việc dự đốn các thang chức năng, so với thang điểm của các triệu chứng,
trong khi hoạt động xã hội chiếm tỷ lệ cao nhất về sự khác biệt trong chất lượng
cuộc sống toàn cầu. Nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng chức năng thể chất và vai trị
có tương quan cao[11]. Một nghiên cứu khác khi đánh giá CLCS của người bệnh


15

ung thư nhận hóa trị liệu thực hiện bởi Abdelrahim và cộng sự (2017) cũng cho thấy
CLCS có mối tương quan nghịch với độ tuổi, thời gian kể từ khi được chẩn đoán
ung thư và giai đoạn ung thư. Nghiên cứu cịn chỉ ra CLCS ở người bệnh có thu
nhập cao hơn được nhận thấy tốt hơn [8].
1.3.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam
Một số nghiên cứu về chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư cho thấy
CLCS của bệnh nhân ung thư bị ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau và cần được
cải thiện. Khảo sát CLCS của bệnh nhân ung thư tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội
năm 2015 cho thấy CLCS của các BN ung thư là thấp, điểm trung bình theo bộ câu
hỏi FACT-G là 47,03 điểm (SD = 13,84). Nghiên cứu cũng cho thấy thời gian mắc
bệnh dài, giai đoạn nặng hơn của bệnh cũng như những BN đang được điều trị
chăm sóc giảm nhẹ có CLCS thấp hơn có ý nghĩa thống kê. CLCS của BN ung thư
có mối tương quan với: trình độ văn hóa, giai đoạn bệnh, thời gian mắc bệnh và
phương pháp điều trị.[1]. Đánh giá CLCS của 376 bệnh nhân ung thư vú bằng bộ
công cụ QLQ-C30 từ 9/2014 đến 12/2014. Kết quả cho thấy điểm CLCS tổng qt
ở mức trung bình là 58,6 điểm; trong đó, chức năng thể chất 85,8 điểm, nhận thức

đến như các triệu chứng thể chất, tình cảm và nhận thức của bệnh nhân bị ảnh
hưởng trực tiếp bởi chức năng sinh học. Thứ ba, tình trạng chức năng bao gồm thể
chất, tâm lý, xã hội và vai trò. Thứ tư, nhận thức về sức khỏe nói chung đề cập đến
một đánh giá chủ quan bao gồm tất cả các khái niệm về sức khỏe trước đó. Thứ
năm, chất lượng cuộc sống tổng thể được mô tả như một trạng thái chủ quan của
một người nào đó về hạnh phúc và sự hài lịng về cuộc sống của họ. Ngồi ra, có hai
yếu tố quyết định ảnh hưởng đến năm yếu tố chính của chất lượng cuộc sống, đó là
đặc điểm của cá nhân và đặc điểm của môi trường. Các đặc điểm của cá nhân được
phân loại gồm đặc điểm nhân khẩu học, nhân tố về tinh thần, tâm lý và sinh học ảnh
hưởng đến kết quả sức khỏe. Các đặc tính của mơi trường được phân loại là thể chất
hoặc xã hội. Các đặc tính của mơi trường xã hội là ảnh hưởng của các cá nhân hoặc
xã hội đối với sức khỏe, bao gồm bạn bè, gia đình và dịch vụ y tế. Đặc điểm của môi
trường vật lý như nhà cửa, khu phố, về chất lượng cuộc sống được mơ tả ở hình 2.


17

Đặc điểm cá nhân

Chức năng
sinh học

Triệu
chứng

Trạng thái
cơ thể

Sức khỏe


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status