Nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Tp Hà Nội - Pdf 77

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI : NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI
VỚI DOANH NGHIỆP TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN
ĐỘI – CHI NHÁNH ĐIỆN BIÊN PHỦ
Sinh viên thực hiện : Trần Khoa Bảo
Lớp : Ngân hàng 46A
Khóa : 46
Mã sinh viên : CQ 463331
Giảng viên hướng dẫn : TS. Cao Ý Nhi
HÀ NỘI, 5/ 2008
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động ngân hàng là một mắt xích không thể thiếu trong sự vận động
của nền kinh tế. Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam, trong
đó có Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã có những đổi mới sâu sắc,
những bước phát triển mạnh đóng góp tích cực vào kiềm chế lạm phát, ổn
định lưu thông tiền tệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội, trải qua
50 năm xây dựng và phát triển đã không ngừng lớn mạnh và trưởng thành,
luôn giữ vai trò đầu tàu trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam. Trước bối cảnh cạnh tranh mới trong nền kinh tế, Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Hà Nội đã thực hiện triệt để các biện pháp để lành mạnh hóa và
nâng cao năng lực tài chính song song với xử lý tốt nợ tồn đọng, cơ cấu lại
hoạt động, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng đã
không ngừng phát triển cả về số lượng, chất lượng sản phẩm dịch vụ, mở rộng
thị phần để khẳng định vị thế và nâng cao tính cạnh tranh của Ngân hàng trên
địa bàn.
Trong hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, hoạt động
tín dụng đóng vai trò then chốt, mang lại lợi nhuận cao nhưng cũng ẩn chứa

kinh tế. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặt biệt là chính sách tiền
tệ, do vậy ngân hàng là một kênh quan trọng trong chính sách của Chính phủ
nhằm ổn định kinh tế.
Khái niệm Ngân hàng thương mại (NHTM) được tiếp cận trên nhiều
phương diện. Căn cứ vào các hoạt động chủ yếu của NHTM, Điều 20 Luật
Các Tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có ghi:
“ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính
chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm Ngân hàng thương
mại, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại
hình ngân hàng khác.”
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Căn cứ vào các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, có thể định
nghĩa: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch
vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán
và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế”.
Trần Phương Anh Lớp Ngân hàng 46C
4
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.2. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Với vai trò trung gian tài chính, Ngân hàng thương mại thực hiện
chuyển vốn từ người cho vay-người tiết kiệm sang người đi vay-người đầu tư.
Vì vậy, các hoạt động cơ bản của NHTM gồm có huy động vốn, tín dụng, đầu
tư và các hoạt động trung gian khác.
* Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động cơ bản đầu tiên của một NHTM. Ngân hàng

bán đi để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết. Ngân hàng nắm giữ nhiều loại
chứng khoán như chứng khoán Chính phủ, giấy nợ ngắn hạn của các ngân
hàng thương mại, các công ty tài chính…
Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện các hoạt động khác như tham gia góp
vốn với các tổ chức khác, cung cấp các dịch vụ liên quan đi kèm cho khách
hàng để thu phí hoa hồng…
1.2. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa hai chủ thể,
trong đó có sự chuyển giao một lượng giá trị từ chủ thể này sang chủ thể khác
theo những điều kiện mà hai bên thỏa thuận. Quan hệ tín dụng tồn tại dưới
nhiều hình thức khác nhau như tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng…
Tín dụng ngân hàng là hình thức phát triển cao nhất, thể hiện mối quan
hệ tín dụng bằng tiền tệ, giữa một bên là ngân hàng-tổ chức chuyên kinh
doanh trong lĩnh vực tiền tệ, với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Quan hệ này được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi.
Theo điều 20 Luật Các Tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng
sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Cấp tín dụng là
việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với
Trần Phương Anh Lớp Ngân hàng 46C
6
Chuyên đề tốt nghiệp
nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài
chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.”
Nền kinh tế ngày càng phát triển thì khối lượng tín dụng ngân hàng được
thực hiện càng lớn. Tín dụng ngân hàng hiện nay đóng một vai trò quan trọng
trong nền kinh tế thị trường, đối với lĩnh vực sản xuất lưu thông hàng hóa
cũng như lĩnh vực lưu thông tiền tệ.
1.2.2. Phân loại tín dụng ngân hàng

hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân
hàng. Nghiệp vụ chiết khấu dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và những
người ký tên trên thương phiếu. Độ an toàn của thương phiếu tương đối cao
do tối thiểu có hai người cam kết trả tiền cho ngân hàng. Hơn nữa, thương
phiếu có tính thanh khoản cao nên ngân hàng có thể thực hiện tái chiết khấu
tại Ngân hàng Nhà nước.
- Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê
theo những thỏa thuận nhất định. Sau một thời gian nhất định, khách hàng
phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng.
1.2.2.3. Căn cứ theo tài sản đảm bảo
Theo tiêu thức này, tín dụng được chia thành 2 loại:
- Tín dụng không có tài sản đảm bảo : loại tín dụng này có thể được cấp
cho các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có
lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa…
- Tín dụng có tài sản bảo đảm : là loại tín dụng dựa trên cơ sở các bảo
đảm như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Sự bảo
đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung
cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
1.2.3. Tín dụng trung, dài hạn của NHTM
Trần Phương Anh Lớp Ngân hàng 46C
8
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.3.1. Khái niệm và các hình thức tín dụng trung, dài hạn của NHTM
Quan niệm về tín dụng trung, dài hạn rất khác nhau ở các nước trên thế
giới. Ở Việt Nam, tín dụng trung, dài hạn là các khoản tín dụng có thời hạn
trên 1 năm.
- Tín dụng trung hạn : từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài sản cố
định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng
hao mòn.
- Tín dụng dài hạn : trên 5 năm tài trợ cho các công trình xây dựng như

tư lớn. Hơn nữa, nguồn trả nợ cho khoản vay được lấy từ quỹ khấu hao cơ
bản và lợi nhuận thu được từ dự án. Vì vậy, thời hạn trả nợ thường kéo dài
đến khi dự án kết thúc, dẫn đến thu hồi vốn chậm.
* Rủi ro cao
Do đặc điểm của tín dụng trung, dài hạn là có thời gian dài, thu hồi vốn
chậm nên độ rủi ro của các khoản tín dụng này luôn cao. Một dự án có thời
gian đầu tư dài có thể chịu nhiều tác động của các yếu tố như thiên tai, chiến
tranh, sự thay đổi của môi trường kinh tế, chính sách pháp luật, tâm lý người
dân…Hơn nữa, các khoản tín dụng trung, dài hạn thường có số vốn đầu tư lớn
nên khi rủi ro xảy ra sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng hơn cho ngân hàng so với
các khoản tín dụng ngắn hạn.
* Lợi nhuận từ các khoản tín dụng trung, dài hạn lớn
Do các khoản tín dụng trung, dài hạn có thời hạn dài, độ rủi ro cao nên
lãi suất của các khoản vay này thường cao hơn lãi suất ngắn hạn. Sự biến đổi
lãi suất cho vay trung, dài hạn có thể dựa trên cơ sở lãi suất cơ bản do Ngân
hàng Nhà nước quy định, lãi suất của thị trường quốc tế hoặc sự biến đổi của
chỉ số giá cả chung.
Ngoài ra, do các khoản tín dụng trung, dài hạn có tính thanh khoản thấp,
khả năng chuyển đổi thành tiền thấp hoặc chịu chi phí cao nên ngân hàng
Trần Phương Anh Lớp Ngân hàng 46C
10
Chuyên đề tốt nghiệp
thường đặt mức lãi suất cao cho các khoản vay này. Thêm vào đó, các khoản
tín dụng trung, dài hạn có số vốn lớn nên thu nhập mà các khoản tín dụng này
đem lại cho ngân hàng là lớn.
1.3. Doanh nghiệp xây lắp
1.3.1. Khái niệm doanh nghiệp xây lắp
Doanh nghiệp xây lắp (hay còn gọi là doanh nghiệp xây dựng) là doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp
luật, có đăng ký kinh doanh về xây dựng (Theo điều 16 Nghị định

+ Xây dựng các công trình điện, hệ thống kiểm tra đo đếm, viễn thông :
nhà máy phát điện, đường dây, trạm biến áp, các hệ thống truyền tải và phân
phối, các hệ thống thiết bị kiểm tra, các công trình và hệ thống thông tin, viễn
thông…
- Tư vấn thiết kế : tư vấn đầu tư, lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, quản lý
dự án, khảo sát địa chất, thiết kế kỹ thuật, thiết kế chi tiết, lập dự toán, giám
sát kỹ thuật công trình, kiểm tra chất lượng các công trình công nghiệp và dân
dụng, thiết kế công trình điện…
- Lắp đặt
+ Lắp các thiết bị công nghệ, khung nhà công nghiệp, xưởng sản xuất
+ Lắp đặt các thiết bị tự động, thiết bị điện, thiết bị đo, hiệu chỉnh
điện…
- Chế tạo
+ Thiết bị xây dựng, thiết bị bê tông, gạch, băng tải…
+ Chế tạo kết cấu thép, khung nhà công nghiệp, dầm chịu lực…
- Hoạt động khác
+ Đào tạo công nhân kỹ thuật
+ Kinh doanh, xuất nhập khẩu các loại hàng hóa, vật tư thiết bị
+ Xuất khẩu lao động…
Trần Phương Anh Lớp Ngân hàng 46C
12
Chuyên đề tốt nghiệp
1.3.3. Đặc điểm của doanh nghiệp xây lắp
1.3.3.1. Về sản phẩm của doanh nghiệp xây lắp
Sản phẩm của doanh nghiệp xây lắp thường mang những đặc điểm
riêng, khác với các sản phẩm hàng hóa trong lĩnh vực khác như mỗi sản phẩm
đều có thiết kế riêng, yêu cầu riêng về công nghệ, quy phạm…Những đặc
điểm riêng này chi phối làm cho công tác quản lý, điều hành hoạt động trong
quy trình thực hiện đầu tư dễ gây ra lãng phí, thất thoát, phát sinh tiêu cực. Vì
vậy, việc xây dựng cơ chế, chính sách trong hoạt động xây lắp và đầu tư

nhau.
- Sản phẩm xây lắp có thời gian sử dụng lâu dài, chất lượng của sản
phẩm có ý nghĩa quyết định. Vì vậy, mọi sai lầm trong quá trình thi công
thường khó sửa chữa, gây thiệt hại nghiêm trọng. Do vậy, trong quá trình thi
công cần phải thường xuyên kiểm tra, giám sát chất lượng công trình.
- Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc theo giá thỏa
thuận với chủ đầu tư (hay giá đấu thầu). Do vậy, tính chất hàng hóa của sản
phẩm xây lắp không thể hiện rõ như sản phẩm thông thường. Sản phẩm thông
thường không biết người tiêu dùng là ai, trong khi sản phẩm xây lắp đã được
quy định trước giá cả, người mua, người bán thông qua hợp đồng giao nhận
thầu.
- Doanh nghiệp xây lắp có trách nhiệm bảo hành sản phẩm xây lắp sau
khi bàn giao. Bảo hành công trình là điều kiện bắt buộc, được xác lập trên cơ
sở pháp luật và hợp đồng kinh tế giữa chủ đầu tư và đơn vị nhận thầu. Bảo
hành công trình nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của chủ đầu tư, đồng thời xác
lập trách nhiệm của các đơn vị thi công xây lắp trong sửa chữa các hư hỏng
xảy ra trong thời gian bảo hành.
- Sản phẩm xây lắp liên quan đến nhiều ngành khác nhau trong quá trình
xây dựng và sử dụng. Tài sản cố định của các ngành khác nhau là sản phẩm
Trần Phương Anh Lớp Ngân hàng 46C
14
Chuyên đề tốt nghiệp
của ngành xây lắp. Do vậy, chất lượng sản phẩm xây lắp liên quan đến chất
lượng đầu tư của các ngành và hiệu quả đầu tư trong nền kinh tế.
1.3.3.2. Về hoạt động của doanh nghiệp xây lắp
Doanh nghiệp xây lắp có hai lĩnh vực hoạt động chủ yếu là hoạt động
tìm kiếm hợp đồng xây dựng và hoạt động bàn giao công trình hoàn thành,
thanh quyết toán hợp đồng xây dựng với chủ đầu tư.
Trong xây dựng, người ta thường phân biệt một bên là chủ đầu tư (bên
A) và đơn vị xây dựng bao thầu (bên B). Hiện nay, các dự án đều thực hiện

- Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp xây lắp thường chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Các ngân
hàng thường cho vay các doanh nghiệp xây lắp chủ yếu để tài trợ vốn lưu
động, phục vụ thi công các công trình. Đối với nhu cầu đầu tư mới, ngân hàng
thường chỉ tham gia tài trợ một phần, phần còn lại các doanh nghiệp xây lắp
phải bỏ vốn tự có của mình.
- Tốc độ chu chuyển vốn trong các doanh nghiệp xây lắp thường không
cao. Do quy mô lớn, thời gian sản xuất kéo dài nên vốn dùng để đầu tư vào
công trình dễ bị ứ đọng, gây ra tình trạng thất thoát lãng phí. Nếu công trình
thiếu vốn hoạt động thì quá trình thi công sẽ bị gián đoạn, thời gian xây dựng
bị kéo dài hơn. Khi công trình hoàn thành, công tác nghiệm thu, quyết toán và
thanh toán phụ thuộc nhiều vào chủ đầu tư. Do vậy, các doanh nghiệp xây lắp
thường bị chiếm dụng vốn trong thời gian dài, tốc độ quay vòng vốn lưu động
thấp. Nhu cầu vốn lưu động cần thiết cho thi công lớn trong khi vốn chủ sở
hữu chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn nên các doanh nghiệp xây lắp phải
huy động vốn bên ngoài, chủ yếu là vốn vay ngân hàng.
1.3.3.4. Về tổ chức quản lý của doanh nghiệp xây lắp
Hoạt động tổ chức quản lý, điều hành có ảnh hưởng lớn đến tiến độ hoàn
thành, chất lượng các công trình xây dựng và hiệu quả sản xuất kinh doanh
Trần Phương Anh Lớp Ngân hàng 46C
16
Chuyên đề tốt nghiệp
của doanh nghiệp xây lắp. Hoạt động sản xuất thường diễn ra ở ngoài trời,
chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên nên đòi hỏi công tác tổ chức,
quản lý trong xây dựng phải khoa học, hợp lý để đảm bảo phối hợp tốt hoạt
động của các đội, nhóm lao động, đảm bảo cung ứng, dự trữ, bảo quản vật
liệu…tránh rủi ro và đem lại hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.
1.4. Vai trò của tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp
Trong nền kinh tế, xuất phát từ sự khác biệt về đặc điểm tuần hoàn luân
chuyển vốn cũng như về chu kỳ kinh doanh, chu kỳ thu nhập của các doanh

phát triển, tăng cường chữ tín với khách hàng.
Tuy nhiên, tín dụng ngân hàng đặc biệt là tín dụng trung, dài hạn thường
được tập trung tài trợ cho các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp làm ăn hiệu
quả. Điều này bắt buộc các doanh nghiệp xây lắp phải chủ động đứng vững và
có sức cạnh tranh lớn trên thị trường.
Hơn nữa, khi cho vay, ngân hàng thường tìm hiểu tình hình tài chính của
doanh nghiệp, đánh giá mặt mạnh, mặt yếu, rủi ro của doanh nghiệp. Do vậy,
để có thể vay vốn ngân hàng, các doanh nghiệp phải đảm bảo khả năng tài
chính tốt. Tín dụng ngân hàng trở thành công cụ kích thích quá trình sản xuất,
quản lý kinh tế, kiểm tra, giám sát các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
- Tín dụng trung, dài hạn góp phần tác động đến tăng cường chế độ hạch
toán kinh tế của doanh nghiệp xây lắp.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng là dựa trên cơ sở cho vay có
hoàn trả cả gốc và lãi. Điều này buộc các doanh nghiệp phải tính toán để có
một tỷ lệ lãi trên vốn vay lớn hơn lãi suất cho vay của ngân hàng, kích thích
việc sử dụng vốn có hiệu quả. Khi sử dụng vốn vay ngân hàng, các doanh
nghiệp phải đảm bảo khả năng hoàn trả nợ vay đúng hạn, thực hiện đúng theo
hợp đồng tín dụng.Vì thế đòi hỏi các doanh nghiệp phải sáng tạo trong việc
Trần Phương Anh Lớp Ngân hàng 46C
18
Chuyên đề tốt nghiệp
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng vòng quay vốn,
nâng cao doanh lợi của doanh nghiệp.
Tóm lại, tín dụng trung, dài hạn có vai trò rất quan trọng, được coi như
một mắt xích không thể thiếu đối với hoạt động của các doanh nghiệp và của
toàn bộ nền kinh tế. Tín dụng trung, dài hạn mang lại lợi nhuận cao cho ngân
hàng, giúp doanh nghiệp làm ăn có lãi. Đặc biệt trong điều kiện Việt Nam
hiện nay, khi cơ cấu kinh tế nhiều mặt chưa hợp lý, thất nghiệp ở mức độ cao,
thì đầu tư tín dụng trung, dài hạn góp phần sắp xếp lại sản xuất, từng bước
hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Hoạt động tín dụng trung, dài hạn giúp cho

tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Đối với khách hàng : tín dụng phải phù hợp với mục đích sử dụng của
khách hàng với lãi suất và kỳ hạn nợ hợp lý, thủ tục đơn giản, thuận tiện.
- Đối với ngân hàng :
Chất lượng tín dụng trước hết được đánh giá qua tính an toàn của khoản
tín dụng hay khả năng trả nợ của khách hàng. Vốn cho vay ra phải được hoàn
trả đầy đủ và đúng hạn.
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh
doanh tiền tệ nên ngoài việc đảm bảo an toàn vốn vay thì việc gia tăng lợi
nhuận là mục tiêu mà ngân hàng luôn hướng tới. Một khoản cho vay có chất
lượng là khoản cho vay được hoàn trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi.
Ngoài ra, chất lượng tín dụng đối với ngân hàng thương mại còn được
đánh giá qua khả năng mở rộng thị phần, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh
dịch vụ, tối ưu hóa lợi nhuận ngân hàng.
Như vậy, có thể thấy chất lượng tín dụng là mục tiêu tổng hợp, phản ánh
mức độ thích nghi của ngân hàng thương mại với sự thay đổi của môi trường
Trần Phương Anh Lớp Ngân hàng 46C
20
Chuyên đề tốt nghiệp
bên ngoài, thể hiện sức mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để
tồn tại.
Chất lượng tín dụng trung, dài hạn phản ánh kết quả hoạt động tín dụng
trung, dài hạn của ngân hàng thương mại. Chất lượng tín dụng trung, dài hạn
được thể hiện qua các chỉ tiêu như chỉ tiêu khả năng sinh lãi, tỷ lệ nợ quá hạn,
nợ xấu…
1.5.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn
1.5.2.1. Các chỉ tiêu định tính
- Các khoản tín dụng trung, dài hạn được thực hiện theo đúng quy trình
tín dụng. Quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân

của ngân hàng. Thông qua chỉ số này cũng đánh giá được khả năng huy động
vốn của ngân hàng. Ngân hàng có tổng dư nợ tín dụng cao chứng tỏ khả năng
huy động vốn của ngân hàng tốt.
Dư nợ tín dụng trung, dài hạn phản ánh lượng vốn trung, dài hạn khách
hàng đang nợ ngân hàng vào thời điểm cuối kỳ. Tỷ trọng dư nợ tín dụng
trung, dài hạn cho biết dư nợ trung, dài hạn chiếm bao nhiêu phần trăm trong
tổng dư nợ.
Qua chỉ tiêu này có thể thấy được chính sách tín dụng của ngân hàng là
mở rộng hay thu hẹp quy mô tín dụng trung, dài hạn. Thông thường, do tín
dụng trung, dài hạn có độ rủi ro cao nên tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn thường
thấp hơn so với tỷ trọng dư nợ tín dụng ngắn hạn.
Để đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây
lắp, các ngân hàng thường tính toán và xem xét chỉ tiêu về tỷ trọng dư nợ tín
dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp :
Trần Phương Anh Lớp Ngân hàng 46C
22
Chuyên đề tốt nghiệp
Tỷ trọng dư nợ tín dụng Dư nợ tín dụng TDH đv DNXL
trung, dài hạn đối với = ——————————————
doanh nghiệp xây lắp Dư nợ tín dụng TDH

Chỉ tiêu dư nợ tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp phản
ánh quy mô và sự tăng trưởng hoạt động tín dụng trung, dài hạn đối với doanh
nghiệp xây lắp của ngân hàng. Tổng dư nợ tín dụng trung, dài hạn đối với
doanh nghiệp xây lắp cao và tăng trưởng cho thấy ngân hàng đã và đang mở
rộng thị phần trong ngành xây lắp. Ngược lại, dư nợ tín dụng trung, dài hạn
đối với doanh nghiệp xây lắp qua các năm giảm chứng tỏ chính sách thu hẹp
tín dụng đối với doanh nghiệp xây lắp của ngân hàng.
Chỉ tiêu dư nợ tín dụng trung, dài hạn đối với DNXL cần xem xét kết
hợp với chỉ tiêu tỷ trọng dư nợ tín dụng trung, dài hạn đối với DNXL để đánh

khăn tạm thời, chậm thanh toán nhưng cũng có khách hàng đình trệ sản suất,
thua lỗ nặng nề, không có khả năng trả nợ.
Nếu ngân hàng có nhiều khoản nợ trung, dài hạn quá hạn, tỷ lệ nợ quá
hạn trung, dài hạn cao, ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn, tình trạng kéo dài sẽ
ảnh hưởng đến sự tồn tại của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn cao, tính an toàn
của khoản vay thấp, ngân hàng đứng trước nguy cơ mất vốn, có thể dẫn đến
mất khả năng thanh toán. Tỷ lệ nợ quá hạn trung, dài hạn thấp cho thấy chất
lượng tín dụng của ngân hàng cao. Tuy nhiên, việc chuyển nợ quá hạn cần
tuân thủ đúng nguyên tắc, tránh việc gia hạn nợ tràn lan để giảm tỷ lệ nợ quá
hạn.
Thực tế cho thấy hoạt động tín dụng của ngân hàng không thể không có
nợ quá hạn. Ngân hàng phải chấp nhận nợ quá hạn, cố gắng kiểm soát tỷ lệ
này ở mức độ hợp lý.
Trần Phương Anh Lớp Ngân hàng 46C
24
Chuyên đề tốt nghiệp
Tỷ lệ nợ quá hạn được xem là cao hay thấp cần so sánh với tỷ lệ chung
của ngành và tỷ lệ chấp nhận của chính ngân hàng.
Tỷ lệ nợ quá hạn ≤ 3% : mức độ an toàn của ngân hàng tương đối cao.
Tỷ lệ nợ quá hạn 3%-5% : được coi là bình thường.
Tỷ lệ nợ quá hạn ≥ 5% : hoạt động tín dụng của ngân hàng ẩn chứa
nhiều rủi ro.
Đối với doanh nghiệp xây lắp, ngân hàng thường sử dụng thêm tỷ lệ nợ
quá hạn đối với doanh nghiệp xây lắp để đánh giá :
Dư nợ quá hạn TDH của DNXL
Tỷ lệ nợ quá hạn TDH = ————————————————
đối với DNXL Tổng dư nợ TDH của DNXL

Qua chỉ tiêu này, ngân hàng có thể xem xét đánh giá khả năng trả nợ của
các DNXL, trên cơ sở đó có những chính sách tín dụng thích hợp đối với


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status