Tài liệu Luận văn tốt nghiêp “Thực trạng thu - chi quỹ BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ (Nam Định)” - Pdf 83



…………..o0o…………..

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Thực trạng thu - chi quỹ BHXH tại
phòng BHXH huyện Giao Thuỷ (Nam
Định)
1

LỜI NÓI ĐẦU
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những loại hình bảo hiểm ra
đời sớm ở nước ta. Đây là một loại hình bảo hiểm đặc biệt, nó ít mang tính
chất kinh doanh thương mại mà chủ yếu là tính nhân dạo và nhân văn cao
cả.

giáo PGS.TS Hồ Sĩ Sà đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.

Hà Nội ngày 15 tháng 4 năm 2004
Sinh viên: Trần Văn Phác

3
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ BHXH VÀ QUỸ BHXHI. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÓ BHXH
1 – Sự ra đời của BHXH
Nền sản xuất hàng hoá càng phát triển thì vấn đề thuê mướn nhân
công diễn ra càng phổ biến, mâu thuẫn giữa chủ và thợ ngày càng gia tăng.
Đặc biệt khi người lao động không may gặp rủi ro, sự cố như: ốm đau,

y BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ người lao
động, bằng cách thông qua việc tập trung nguồn tài chính được huy động từ
sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động (nếu có), sự tài
trợ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia
đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập do gặp các rủi ro
ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động theo
quy định của pháp luật hoặc tử vong…

2 - Sự cần thiết phải có hệ thống BHXH
Trong cuộc sống cũng như trong các hoạt động sản xuất hàng ngày,
mặc dù không muốn nhưng người lao động không thể tránh khỏi hết những
rủi ro bất ngờ xảy ra như: ốm đau; bệnh t
ật, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp…Tất cả những nguyên nhân đó xảy ra đều ít nhiều làm ảnh hưởng
đến đời sống vật chất và tinh thần cho bản thân cũng như gia đình; người
thân của họ.
Muốn khắc phục được khó khăn do các rủi ro nêu trên gây ra, người
lao động cần phải được sự bảo trợ của tập thể số đông. Đặc biệ
t để người
lao động yên tâm tham gia sản xuất tạo điều kiện phát triển kinh tế đất
nước thì nhà nước cần phải can thiệp vào nhằm làm giảm bớt những khó
khăn cho người lao động trong các trường hợp: ốm đau, thai sản, tai nạn
lao động – bệnh nghề nghiệp, chết, mất việc làm khi về già…Từ đó BHXH
5
được ra đời như một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội
đều cảm thấy cần phải tham gia hệ thống BHXH này.
II . VAI TRÒ VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA BHXH
1 – Vai trò của BHXH
1.1) Đối với người lao động

dụng lao động phải tham gia đóng BHXH cho những người lao động của
mình để có thể đảm bảo những khoả
n chi trả cần thiết, kịp thời đến người
lao động khi họ gặp những rủi ro bất chắc. Việc tham gia đóng góp BHXH
cho người lao động của người chủ sử dụng lao động là góp vào quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn,
nâng cao năng suất, hiệu quả lao động sản xuất của doanh nghiệp cũng như
nâng cao thu nhập cho người lao động và góp vào việc phát triể
n nền kinh
tế của đất nước.
1.3) Đối với xã hội
Thứ nhất, cần phải khẳng định rằng hoạt động BHXH là một hoạt
động dịch vụ, cơ quan BHXH là một “doanh nghiệp” sản xuất ra những
dịch vụ “ bảo hiểm” cho người lao động, một loại dịch vụ mà bất cứ ai
cũng cần đến (không phải chỉ cán bộ, công nhân viên chức m
ới cần). Nếu
các doanh nghiệp này càng sản xuất ra nhiều loại bảo hiểm (đáp ứng đa
dạng các nhu cầu) thì giá trị của những sản phẩm dịch vụ này cũng được
tính trực tiếp vào tổng sản phẩm xã hội.
Thứ hai, với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của
Nhà nước, BHXH sẽ “ bảo hiểm” cho người lao động, hoạt động BHXH sẽ
gi
ải quyết những “ trục trặc”, “ rủi ro” xảy ra đối với những người lao
động, góp phần tích cực của mình vào việc phục hồi năng lực làm việc, khả
năng sáng tạo của sức lao động. Sự góp phần này tác động trực tiếp đến
việc nâng cao năng suất lao động cá nhân, đồng thời góp phần tích cực của
mình vào việc nâng cao năng suất lao động xã hội. Với sự tr
ợ giúp của
người lao động khi gặp phải rủi ro bằng cách tạo ra thu nhập thay thế thì
7


8
2 – Những nguyên tắc của BHXH

2.1) Mọi ngưòi lao động trong mọi trường hợp bị giảm hoặc mất khả
năng lao động hoặc mất việc làm đều có quyền được BHXH .
Quyền đựơc BHXH của người lao động là một trong những biểu hiện
cụ thể của quyền con người. Nhưng khi muốn xây dựng hệ thống BHXH
thì đầu tiên Nhà nước phải tạo điều kiện và môi trường kinh tế xã hội, v

chính sách và luật pháp, về tổ chức và cơ chế quản lý cần thiết. Đồng thời,
những người sử dụng lao động và người lao động phải thực hiện trách
nhiệm đóng góp tài chính của mình. Không phải là cái có sẵn nên trước hết
phải tìm cách tạo ra nó. Ở mỗi nước không có sự đóng góp này thì chính
sách BHXH có hay đến mấy cũng không bao giờ có BHXH trong thực tiễn.
Vì vậy, thực hiện trách nhiệm đóng góp tài chính BHXH là đ
iều kiện cơ
bản nhất để người lao động được hưởng quyền BHXH.
2.2) Nhà nước và người sử dụng lao động có trách nhiệm phải BHXH
đối với người lao động, người lao động cũng phải tự bảo hiểm cho mình.
Đây là mối quan hệ ba bên trong nền kinh tế thị trường, trong đó Nhà
nước có vai trò quản lý vĩ mô mọi hoạt động kinh tế xã hội trên phạm vi cả
nước. V
ới vai trò này Nhà nước có trong tay mọi điều kiện vật chất của
toàn xã hội, đồng thời cũng có mọi công cụ cần thiết để thực hiện vai trò
của mình. Cùng với sự tăng trưởng sự phát triển kinh tế xã hội, cũng có
những kết quả bất lợi không mong muốn. Những kết quả bất lợi này trực
tiếp hoặc gián tiếp sẽ dẫn đến nhữ
ng rủi ro cho người lao động. Khi xảy ra
tình trạng như vậy nếu không có BHXH thì Nhà nước vẫn phải chi Ngân

ải có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho
mình.
2.3) BHXH phải dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia để hình
thành lên quỹ BHXH
Ở nguyên tắc trên đã thấy rõ tính khách quan của trách nhiệm phải
tham gia BHXH đối với người lao động của cả ba bên (Nhà nước, người sử
dụng lao động và người lao động) trong nền kinh tế thị trường. Biểu hiện
10
cụ thể của trách nhiệm này là đóng phí BHXH đầu kỳ. Nhờ sự đóng góp đó
mà phương thức riêng có của BHXH là dàn trải rủi ro theo nhiều chiều, tạo
điều kiện để phân phối thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang mới
được thực hiện. Hơn nữa nó còn tạo ra mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ
giữa trách nhiệm với quyền lợi góp phần phòng chống nhữ
ng hiện tượng
nhiễu trong hệ thống hoạt động mang lại nhiều lợi ích cho mọi người có
liên quan này.
2.4) Phải tuân theo quy luật số lớn
BHXH là một trong các nguyên tắc, các cơ chế an toàn xã hội, trước
hết là sự trợ giúp cho người lao động trong các trường hợp bị giảm hoặc bị
mất thu nhập tạm thời khi họ bị ốm đau, thai sản… hoặc hết tuổi lao động
theo quy đị
nh của pháp luật. Trong cả cuộc đời của người lao động thường
thì thời gian lao động dài hơn thời gian người lao động bị tạm thời mất khả
năng lao động hoặc thời gian từ khi hết tuổi lao động đến lúc chết. Vả lại
tất cả những người tham gia BHXH cùng một lúc có nhu cầu bảo hiểm, vì
vậy nguyên tắc trước hết của BHXH là lấy số đông bù s
ố ít, lấy quãng đời
lao động có thu nhập để bảo hiểm cho khi giảm hoặc mất khả năng lao
động.
2.5) Kết hợp giữa các loại lợi ích, các khả năng và phương thức đáp ứng

lương thì chẳng khác gì bị rủi ro đem rủi ro của mình dàn trải hết cho
những người khác.
Như vậy, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang
đi làm. Tuy nhiên do mục đích, bản chất và cách làm của BHXH thì mức
trợ cấp thấp nhất cũng không thể thấp hơn mức sống tối thiểu hàng ngày.
Chỉ khi đó BHXH mới có tính nhân văn cao cả.
2.7) Kết hợp giữa BHXH bắt buộc với BHXH tự nguyện
Bảo hiểm xã hội áp dụng hình th
ức bắt buộc để đảm bảo quy luật số
lớn và số có hệ số an toàn cao nhằm đảm bảo cuộc sống của người lao
12
động. Tuy nhiên, có những trường hợp, người lao động muốn hưởng trợ
cấp hưu trí ở mức cao hơn mức được hưởng dưới hình thức bắt buộc, hoặc
khi cân nhắc thấy họ đóng thêm vào BHXH cũng là một hình thức gửi tiền
tiết kiệm, và có khi còn lợi hơn gửi vào ngân hàng, thì họ sẽ có nhu cầu
đóng phí BHXH nhiều hơn mức quy định. Chính vì vậy, khi đáp ứng nhu
cầu
đó cũng thực hiện được đảm bảo tốt hơn cuộc sống cho người lao
động đồng thời quy luật số lớn vẫn được tôn trọng.
2.8) Phải đảm bảo tính thống nhất BHXH trên phạm vi cả nước, đồng
thời phải phát huy tính đa dạng, năng động của các bộ phận cấu thành
Hệ thống BHXH của một nước thường gồm nhiều bộ ph
ận cấu thành.
Trong đó bộ phận lớn nhất do Nhà nước tổ chức và bảo hộ đặc biệt bao
trùm toàn bộ những người hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước và những
người lao động thuộc những khu vực kinh tế quan trọng của đất nước. Các
bộ phận nhỏ hơn do các đơn vị kinh tế và tư nhân tổ chức ra để bảo hiểm
cho một số đối t
ượng hạn chế do pháp luật quy định. Trong bộ phận do
Nhà nước tổ chức còn có thể có một số bộ phận BHXH chuyên ngành như:

điểm chung là tập hợp các phương tiện tài chính cho những hoạt động nào
đó theo mục tiêu định trước. Quỹ lớn hay quỹ nhỏ biểu thị khả năng về
mặt
phương tiện và vật chất để thực hiện công việc cần làm.
Tất cả các quỹ đều không chỉ tồn tại với một khối lượng tĩnh tại một
thời điểm mà luôn biến động tăng lên ở đầu vào với các nguồn thu và giảm
đi ở đầu ra với các khoản chi như một dòng chảy liên tục. Để đảm bảo cho
đầu ra ổ
n định, người ta thiết lập một lượng dự trữ. Bởi vậy, để nắm và
điều hành được một quỹ nào đó thì không phải chỉ nắm được khối lượng
của nó tại một thời điểm nhất định, mà quan trọng hơn là phải nắm được
lưu lượng của nó trong một khoảng thời gian nhất định.
Theo những quan niệm về quỹ
nói chung như trên, thì quỹ BHXH là
tập hợp những đóng góp bằng tiền của những người tham gia BHXH hình
14
thành một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước
để chi trả cho những người được BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc
mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm.
Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng đồng thời là một quỹ dự
phòng, nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều
kiện hay cơ
sở vật chất quan trọng đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH
tồn tại và phát triển.
Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết
những rủi ro của tất cả những người tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp
cho việc dàn trải rủi ro được thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời
gian, đồng thời giúp giảm tối thiểu thiệ
t hại kinh tế cho người sử dụng lao
động, tiết kiệm chi cho cả ngân sách Nhà nước và ngân sách gia đình.

Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho hai mực đich sau đây:
- Chi trả và trợ cấp cho các ch
ế độ BHXH
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) quỹ BHXH
được sử dụng để trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH, nhằm ổn định
cuộc sống cho bản thân và gia đình họ, khi đối tượng tham gia BHXH gặp
rủi ro. Thực chất là trợ cấp cho 9 chế độ mà tổ chức này đã nêu lên trong
công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnev
ơ:
1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế
16
9. Trợ cấp cho người còn sống ( trợ cấp mất người nuôi dưỡng)
9 chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH . Tuỳ điều kiện
kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến
nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được ba chế độ.
Trong đó, ít nhất phải có mộ
t trong năm chế độ: (3), (4), (5), (8), (9). Mỗi
chế độ trong hệ thống trên khi xây dựng đều dựa trên những cơ sở kinh tế
xã hội tài chính, thu nhập, tiền lương .v.v…Đồng thời tuỳ từng chế độ khi
xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học; tuổi thọ bình quân của
quốc gia, nhu cầu dinh dưỡng; xác suất tử vong…
Tuy nhiên, cơ sở để xác định điều kiện hưởng BHXH phả

hưởng trợ cấp bằng 50% tiền lương, thời gian nghỉ ốm được hưởng trợ cấp
không quá 12 tháng. Sinh con được hưởng trợ cấp BHXH bằng 90% tiền
lươ
ng trong vòng 16 tuần v.v…Còn ở Philipin, mức trợ cấp hưu trí từ 42%
đến 102%, tuỳ thuộc từng nhóm lương khác nhau, ốm đau được hưởng
65%, sinh con được nghỉ 45 ngày và được trợ cấp bằng 100% tiền lương
v.v…
Tuy vậy, việc các nước quy định trợ cấp BHXH bằng tỷ lệ phần trăm
so với tiền lương hay tiền công thường dẫn đến bội chi quỹ BHXH. Vì vậy,
một số nướ
c đã phải tìm cách khắc phục như: trả ngay 1 lần khi nghỉ hưu,
hoặc suốt đời đóng theo tỷ lệ phần trăm của một mức thu nhập quy định và
hưởng cũng theo tỷ lệ phần trăm của mức quy định.
Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH, quỹ BHXH còn
được sử dụng cho chi phí quản lý như: Tiền lương cho những người làm
việc trong h
ệ thông BHXH; khấu hao tài sản cố định, văn phòng phẩm và
một số khoản chi khác… Phần quỹ nhàn rỗi phải được đem đầu tư sinh lợi.
Mục đích đầu tư quỹ BHXH là nhằm bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ.
Quá trình đầu tư quỹ BHXH phải đảm bảo nguyên tắc: an toàn, có lợi
nhuận, có khả năng thanh toán và đảm bảo lợi ích kinh tế- xã hội. 18
BHXH huyện Giao Thuỷ có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ BHXH
tỉnh Nam Định giao cho gồm:
- Xây dựng chương trình, kế hoạch công tác năm trình Giám đốc BHXH
tỉnh Nam Định phê duyệt và tổ chức thực hiện;
- Theo dõi, đốc thu BHXH 20% so với tổng quỹ lương (hiện nay là 23%
do y tế nhập vào 3%) trong đó thu 15% của chủ sử dụng lao động (hiện nay
là 17%) và 5% của người lao động (hiện nay là 6%);
- Chi trả các chế độ nghỉ ốm, thai sản cho đối tượng tham gia đóng góp
BHXH;
BHXH
Nam Định
BHXH
Việt Nam
BHXH
Giao Thuỷ
20
- Tổ chức việc chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH, cả việc chi pháp lệnh
người có công;
- Theo dõi tăng, giảm hàng tháng để lập danh sách chi trả lương hưu và trợ
cấp theo quy định;
- Tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo về chế độ, chính sách BHXH để giải
quyết theo thẩm quyền hoặc báo cáo với BHXH tỉnh xem xét giải quyết;

ần hỗ trợ từ Ngân
sách Nhà nước; nguồn thu này phản ánh rõ nét quan hệ ba bên trong
BHXH, là cơ sở để tạo ra các quan hệ khác trong BHXH.
- Thực chất, quan hệ ba bên trong BHXH là mối quan hệ về lợi ích do
sự đóng góp vào BHXH của các bên tham gia là mối quan hệ về lợi ích, từ
việc tham gia đóng góp BHXH các bên tham gia BHXH đều tìm kiếm
được lợi ích cho mình, người sử dụng lao động tìm kiếm lợi ích từ việc họ
sẽ bỏ ra ít chi phí hơn khi ngườ
i lao động không may gặp phải những rủi
ro, người lao động được tìm kiếm lợi ích từ việc họ được hưởng các quyền
lợi khi họ không may gặp phải những rủi ro, Nhà nước đạt được mục tiêu
ổn định được xã hội, ổn định được mối quan hệ lợi ích giữa người lao động
và người sử dụng lao động trong xã hội để người lao động yên tâm tham
gia sản xu
ất thúc đẩy nền kinh tế-xã hội phát triển.
Từ đó có thể nói rằng, thu BHXH là một phần quan trọng không thể
thiếu được của hoạt động BHXH.
1.2) Công tác thu BHXH tại BHXH huyện Giao Thuỷ
Giao Thuỷ là một huyện có địa hình rất phức tạp: một mặt giáp với
biển, một mặt lại giáp với Sông Hồng nên ở đây tồn tại nhiều ngành nghề
khác nhau như: làm nông nghiệp (phần lớ
n), khu vực giáp với biển thì nhân
dân lại đánh bắt và nuôi thuỷ sản xuất khẩu (nhưng chưa có đủ quy mô lớn
để trở thành công ty hay doanh nghiệp, mà hầu hết là tư nhân tự đứng ra
22
làm lấy với số lao động là con em trong gia đình họ) hoặc kinh doanh du
lịch; bãi tắm (Quất Lâm), làm muối…
Trên địa bàn huyện Giao Thuỷ hiện nay chưa có khu công nghiệp nào
mà chỉ có một vài xí nghiệp; công ty có quy mô đủ lớn (đi thuê lao động)
ngoài các doanh nghiệp nhà nước có trên địa bàn, đó là: Xí nghiệp muối


2 - Những nguồn thu BHXH
Thông thường, quỹ BHXH được hình thành từ nguồn sau:
- Thu từ đóng góp của những người tham gia BHXH là nguồn thu chủ
yếu, quan trọng nhất cho bất cứ quỹ BHXH của bất kỳ quốc gia nào, nó là
cơ sở chủ yếu để hình thành nên quỹ
BHXH và tạo ra nguồn tài chính để
thực hiện những chế độ BHXH; nhưng trong quá trình quản lý sự đóng góp
của người tham gia BHXH cũng phức tạp và khó khăn nhất. Nguồn thu này
có tầm quan trọng đặc biệt, nó là nền tảng để có thể thực hiện được chính
sách BHXH. Thông thường, nguồn thu này được hình thành như sau:
+ Người lao động tham gia BHXH đóng góp vào quỹ BHXH trên cơ sở
tiền lương; tuỳ theo điều kiện c
ủa mỗi quốc gia mà phần đóng góp của
người lao động có khác nhau, nhưng đều dựa trên cơ sở là tiền lương của
người lao động làm căn cứ để tính toán số tiền người lao động phải đóng
góp vào quỹ BHXH. Theo Điều lệ BHXH hiện hành quy định người lao
động phải đóng góp bằng 6% tiền lương tháng( trước đây là 5%).
+ Người sử dụng lao động tham gia đóng góp BHXH cho người lao
độ
ng trong đơn vị mình; thông thường phần đóng góp của người sử dụng
lao động dựa trên tổng quỹ lương. Theo Điều lệ BHXH hiện hành quy định
người sử dụng lao động phải đóng góp bằng 17% (trước đây là 15%) tổng
quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị.
- Thu từ việc hỗ trợ của Ngân sách Nhà nước chủ yếu là để đảm bảo
cho các hoạt động BHXH diễn ra được đều đặn, bình thường, tránh những
xáo trộn lớn trong việc thực hiện BHXH. Nguồn thu từ việc hỗ trợ của
24
Ngân sách Nhà nước cho quỹ BHXH đôi khi là khá lớn, việc hỗ trợ cho
hoạt động BHXH của Nhà nước là hoạt động thường xuyên và liên tục để


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status