Tài liệu Luận văn tốt nghiệp “Những giải pháp nhằm đẩy nhanh việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ AFTA” - Pdf 84

u ---XW--- Những giải pháp nhằm đẩy nhanh
việc thực hiện các cam kết của Việt
Nam trong khuôn khổ AFTA 1.
2.
3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
4.

LỜI NÓI ĐẦU

AFTA dù ít, nhiều mang ý nghĩa quan trọng đối với tương lai kinh tế Việt

nhanh việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ AFTA.
1.
2.
3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
4.
CHƯƠNG I :
TỔNG QUAN VỀ KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO
ASEAN (AFTA)
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LIÊN KẾT KINH TẾ
KHU VỰC
1.Khái niệm:
Khu vực mậu dịch tự do là một liên minh quốc tế giữa hai hoặc nhiều nước
nhằm mục đích tự do hoa hoá việc buôn bán về một hoặc một số nhóm mặt
hàng nào đó. Biện pháp sử dụng là bãi miễn các công cụ thuế quan và phi thuế
quan giữa các nước thành viên song các nước thành viên vẫn thi hành chính
sách ngoại thương độc lập với các nước ngoài liên minh.
2.Cấp độ liên kết:
Khu vực mậu dị
ch tự do là một liên minh quốc tế ở cấp độ thấp nhất trong
các hình thức liên kết quốc tế
3.Tác động của khu vực mậu dịch tự do
Khu vực này thiết lập nên một mối quan hệ mậu dịch giữa các nước thành
viên,mở rộng quan hệ xuất khẩu với nhau và tiến tới mở rộng ra ngoài khối,
điều này cho thấy nó tác động tích cực đến buôn bán quốc tế nói chung.Vi
ệc di
chuyển sản xuất từ các nhà sản xuất có hiệu quả cao hơn ,người sản xuất và
người tiêu dùng đều có lợi

II. TỔNG QUAN VỀ AFTA:


chức hợp tác kinh tế có thể chế, AFTA dường như là một dạng của "mô hình
phát triển rút ngắn" của kiên kết kinh tế khu vực và trên thực tế, nó không có
được những điều kiện chuẩn bị chín muồi về các bước liên kết khu vực giống
như EU, NAFTA. Do đó, AFTA hình thành trước tiên chỉ như là một hiệp định
khung, có phần h
ơi đơn giản; còn các nội dung và lịch trình của hiệp định lại
chỉ được soạn thảo, sửa đổi và bổ sung đồng thời với tiến trình tổ chức và thực
hiện chúng.
Nền kinh tế của các nước Đông Nam Á đang chuyển động theo những thay
đổi lớn trên thị trường tài chính và hàng hoá thế giới, trên khung cảnh hợp tác
khu vực, trước hết là khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, với sự hoạ
t động hết
sức sôi động của các công ty đa quốc gia. Sự di chuyển ồ ạt các dòng vốn đầu
tư, công nghệ và tri thức kinh doanh kéo theo sự biến động trong lợi thế so sánh
của nhiều nước. Thị trường khu vực ngày càng phát triển và thể chế hợp tác khu
vực ngày càng được định hình đã làm thay đổi nhanh chóng vị trí và chiến lược
phát triển của từng nước.
Mặc dù khủng hoảng kinh tế
đã diễn ra trong những năm giữa thập kỷ 80, tốc
độ tăng trưởng kinh tế của ASEAN từ năm 1981 đến 1994 là 5,4% (* thống kê
của Ban thư ký ASEAN) gần gấp hai lần tốc độ tăng trưởng trung bình của thế
giới. Với tốc độ phát triển kinh tế như vậy cùng với mục đích hợp tác toàn diện
trên mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị - khoa học - xã hội ngay từ khi m
ới thành
lập, lẽ ra hợp tác kinh tế của ASEAN đã rất phát triển nhưng trên thực tế thành
tựu lớn nhất mà ASEAN đạt được trong suốt 25 năm tồn tại đầu tiên là hợp tác
trong lĩnh vực chính trị quốc tế và an ninh nội bộ của các nước thành viên. Mặc
dù nhấn mạnh vào hợp tác kinh tế, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, cho
tới năm 1992, việc hợp tác này vẫn tiến triển rất chậm ch
ạp.

ASEAN cũng bị ảnh hưởng một phần vì cơ cấu tổ chức với một Ban thư ký có
quá ít quyền hạn độc lập, không đủ khả năng để thực hiện vai trò cơ bản trong
việc đẩy nhanh và tăng cường hợp tác kinh tế khu vực. Nếu như nguyên t
ắc
nhất trí của ASEAN đã thúc đẩy việc thống nhất và ổn định thì chính nó cũng
làm cho các bước đi hợp tác kinh tế vị chậm lại hoặc bị điều chỉnh chỉ bởi một
nước thành viên thận trọng nào đó.
Tuy nhiên, các hoạt động hợp tác kinh tế của ASEAN đã có khuynh hướng
tiến đến hiệu quả hơn từ AIP đến AIJV. Khu vực tư nhân đã được chú tr
ọng
hơn,
quy luật thị trường dần dần được tuân thủ, các thủ tục liên quan được đơn giản
hoá và một số trường hợp các thủ tục rườm rà đã được loại bỏ, mức ưu đãi
(MOP) được tăng cường. Tuy không đạt được kết quả mong đợi nhưng các kế
hoạch hợp tác kinh tế này thực sự là những bài học quý báu cho việc hợp tác
kinh tế
giữa các nước đang phát triển. AFTA đã ra đời trên cơ sở đúc rút kinh
nghiệm từ những kế hoạch hợp tác kinh tế trước AFTA. Hội nghị Thượng đỉnh
ASEAN họp tại Singapore năm 1992 đã quyết định thành lập một Khu mậu
dịch Tự do ASEAN (AFTA) theo sáng kiến của Thái lan.
1.
2.
3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
4.
AFTA thực sự là một bước ngoặt trong hợp tác kinh tế ASEAN, là kết quả tất
yếu của những chuyển động về hợp tác kinh tế ASEAN được tính kể từ năm
1976 - năm tổ chức Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ nhất tại Bali
(Indonesia) và là bước đánh dấu sự chú trọng trở lại với các kế hoạch phát triển
kinh tế mà các lĩnh vực ưu tiên ch
ủ yếu là sản xuất và cung ứng các hàng hoá cơ

khu vực và quốc tế của các cường quốc đã bị hạ thấp. Điều đó có nghĩa là Hoa
Kỳ, Trung Quốc, Nga sẽ giảm bớt cam kết an ninh và giúp đỡ về kinh tế cho
ASEAN. Chính sách mới của các cường quốc và những biến đổi theo hướng
tích cực trên bán đảo Đông Dương đưa lại cho ASEAN những cơ hội và thách
thức mới. Ở thời kỳ hậu chiến tranh l
ạnh, kinh tế các nước ASEAN đứng trước
những thách thức lớn khiến cho các nước ASEAN không dễ vượt qua nếu
không có sự cố gắng chung của toàn Hiệp hội. Đó là sự xuất hiện những tổ chức
hợp tác khu vực như EU, NAFTA có nguy cơ trở thành các khối thương mại
1.
2.
3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
4.
khép kín, sẽ làm cho hàng hoá ASEAN vấp phải những trở ngại hơn nữa khi
thâm nhập vào các thị trường trên.
Mặc dù trong gần một thập niên qua, kinh tế ASEAN đã tăng trưởng với nhịp
độ cao nhưng nền kinh tế các nước này vẫn phụ thuộc nặng nề vào nguồn vốn
từ bên ngoài. Vị thế và triển vọng tăng trưởng của các nền kinh tế này sẽ không
được củng cố và thúc đẩy nế
u như toàn hiệp hội không tạo dựng được sự nỗ lực
chung. Đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự cấp thiết thành lập khu
vực mậu dịch tự do ASEAN. Trong đó, việc liên kết thị trường khu vực như
một trung tâm sản xuất và thương mại quốc tế là điều kiện căn bản để cải thiện
thế thương l
ượng cạnh tranh của ASEAN trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài - một nhân tố được coi là động lực tăng trưởng và tạo ra sự năng
động của châu Á trong những năm gần đây.
Việc thành lập AFTA sẽ mở ra một thị trường tự do rộng lớn và dồi dào tiềm
năng ở khu vực Đông Nam Á. Tham gia AFTA, các nước ASEAN sẽ liên kết
với nhau để phát triển kinh tế

3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
4.
các sản phẩm trung gian cấu thành đầu vào giảm. Cũng tương tự như vậy, đầu
tư trực tiếp nước ngoài sẽ tăng lên do chỗ các nhà đầu tư nước ngoài muốn được
hưởng các ưu đãi đặc biệt của AFTA.

2. Những mục tiêu cơ bản của AFTA:

2.1. Tăng cường trao đổi buôn bán trong nội bộ khối bằng việc loại bỏ các
hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nước ASEAN
Đây là mục tiêu quan trọng nhất của AFTA. Bởi lẽ các nước thành viên
ASEAN đều có nền kinh tế hướng ngoại dựa vào xuất khẩu với tỉ trọng mậu
dịch với các nước ngoài khối khoảng 77% trong đó Mỹ chiếm khoảng 20%,
Nhật 14% và EU 15% trong khi đó tỉ trọng mậu dịch nội bộ khối chỉ chiếm
khoảng 23% theo số liệu thống kê trung bình từ năm 1993 là năm bắt
đầu thực
hiện Hiệp định CEPT đến năm 1998. Thêm vào đó cơ cấu hàng hoá xuất nhập
khẩu của các nước ASEAN tương đối giống nhau vì các nền kinh tế ASEAN
chủ yếu đều là các nền kinh tế đang phát triển có các điều kiện và nhu cầu xuất
nhập khẩu tương đối giống nhau. Vì vậy kim ngạch thương mại chịu ảnh hưởng
trực tiếp của AFTA sẽ không l
ớn. Về mặt này, AFTA sẽ không thể so được với
các thoả thuận thương mại khu vực khác như EU hay NAFTA trong đó có sự
liên kết giữa các nền kinh tế rất phát triển với những nền kinh tế kém phát triển
hơn như trường hợp của Mỹ và Mexico. Tuy nhiên mục tiêu này nhằm thúc đẩy
sự hợp tác kinh tế trong nội bộ ASEAN. Thông qua AFTA, tạo ra một thị
trường chung ASEAN mà trong đó các nước thành viên được hưởng
ưu đãi hơn
so với các nước không thuộc Hiệp hội. Từng bước, tiến tới xoá bỏ về cơ bản
thuế nhập khẩu hàng hoá thuộc các nước thành viên ASEAN với nhau, nhưng

thương mại của ASEAN sẽ không lớn vì những lý do mang tính cơ cấu hàng
hoá xuất nhập khẩu như đã nêu trên, đặc biệt trong giai đoạn đầu thực hiện
AFTA khi quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư và sản xuất quốc tế và khu vực
xuất phát từ việc thành lập AFTA và sau này là việc hình thành khu vực đầu tư
ASEAN (AIA).
Mục tiêu của AIA là xây dựng một khu vực đầu tư
ASEAN thông thoáng, rõ
ràng và hấp dẫn nhất nhằm đẩy mạnh đầu tư vào ASEAN từ cả các nguồn trong
và ngoài Hiệp hội. Tinh thần của AIA là muốn các nước thành viên "mở cửa
ngay lập tức" các ngành nghề và "dành ngay lập tức" chế độ đối xử quốc gia.
Đầu tư trực tiếp vào các nước ASEAN sẽ tăng vì kết quả trao đổi mậu dịch
giữa các quốc gia này sẽ tăng theo AFTA và do đó, sẽ kích thích các công ty
Nhậ
t, Mỹ, EU và NIEs đầu tư nhiều hơn để giữ thị trường này thay vì trước đây
họ thường cung ứng từ các cơ sở sản xuất ngoài ASEAN. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) vào ASEAN sẽ tăng nhờ sự lớn mạnh của chính thị trường khu vực
ASEAN và theo đó, sẽ ngày càng có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nhằm cung
cấp sản phẩm cho các thị trường này. Tuy nhiên,
để đạt được mục tiêu này, các
thành viên ASEAN còn phải nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư và thông qua
AFTA làm cho các môi trường đầu tư của ASEAN trở nên hấp dẫn hơn so với
các khu vực khác. Vấn đề đáng lưu ý là ASEAN cần phải đón bắt được các
dòng đầu tư quốc tế đang trong xu hướng chuyển mạnh từ các khu vực Âu, Mỹ
trở lại châu Á. Dĩ nhiên, đầu tư trực ti
ếp nước ngoài vào ASEAN không phải là
một hiện tượng mới, song những tác động của tiến trình AFTA sẽ nâng cao và
thúc đẩy chúng khởi sắc. Với định hướng phát triển ra ngoài khu vực trên cơ sở
liên kết thị trường bên trong AFTA, ASEAN hoàn toàn có thể hy vọng tới khả
năng đẩy mạnh thế thương lượng cạnh tranh về thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài.

ế suất từ 20% trở xuống và phần thứ 2 là cắt giảm
thuế quan thông thường, áp dụng cho các loại hàng hoá có mức thuế suất nhập
khẩu cao hơn 20%. Danh mục này được áp dụng cho 15 nhóm sản phẩm công
nghiệp chế biến của ASEAN như: xi măng, hoá chất, phân bón, chất dẻo, hàng
điện tử, hàng dệt, dầu thực vật, sản phẩm da, sản phẩm cao su, giấy, đồ gốm và
thuỷ tinh, đồ
dùng bằng gố và song mây, dược phẩm với khoảng 3200 mặt
hàng, chiếm tới 43% tổng số danh mục giảm thuế của toàn ASEAN. Danh mục
2 là Danh mục loại trừ tạm thời, chưa cắt giảm thuế nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho một số thành viên ASEAN tham gia vào tiến trình tự do hoá thương mại
mà không bị sốc về kinh tế, tiếp tục các chương trình đầu tư
đã được đưa ra
trước khi tham gia kế hoạch CEPT hoặc có thời gian để hỗ trợ cho sự ổn định
thương mại hoặc để chuyển hướng sản xuất đối với một số sản phẩm tương đối
trọng yếu trong buổi đầu tham gia CEPT, không bị ảnh hưởng xấu đến hoạt
động sản xuất, kinh doanh trong nước. Sau 5 năm, những hàng hoá này sẽ phải
chuyể
n dần sang Danh mục giảm thuế, mỗi năm 20% số sản phẩm trong Danh
mục loại trừ tạm thời. Danh mục 3 là Danh mục loại trừ hoàn toàn, bao gồm các
sản phẩm không tham gia CEPT nhưng phải có điều kiện phù hợp với quy chế
1.
2.
3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
4.
Tổ chức Thương mại quốc tế WTO. Đây là các mặt hàng có ảnh hưởng tới an
ninh quốc gia, đạo đức xã hội, vốn sống và sức khoẻ con người, động vật, thực
vật, các giá trị lịch sử, văn hoá, giáo dục, nghệ thuật của mỗi nước. Danh mục 4
là sản phẩm nông sản chưa qua chế biến. Các mặt hàng nông sản chưa chế biến
có khả năng gây
ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế các nước ASEAN. Thời hạn

tư vấn kinh tế vĩ mô... trong đó CEPT là cơ chế thực hiện chủ yếu.
CEPT, về thực chất, đó là một thoả thuận giữa các thành viên ASEAN về
việc giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống còn 0-5% thông qua "cơ cấu
1.
2.
3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
4.
thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung" đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định
lượng và các hàng rào phi quan thuế trong vòng 10 năm, được bắt đầu từ
1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003. Hiệp định này sẽ được áp dụng đối với
mọi loại sản phẩm công nghiệp chế biến, bao gồm cả các hàng hoá tư bản và
các sản phẩm công nghiệp đã qua chế biến.
Tuy vậy, trong khung hi
ệp định đó, CEPT được nhấn mạnh cho các mặt hàng
công nghiệp chế biến là đối tượng chủ yếu được thụ hưởng các ưu đãi của
chương trình giảm thuế quan. Việc cắt giảm thuế quan cho chúng sẽ được áp
dụng trong một lịch trình cụ thể theo 2 kênh giảm nhanh và giảm thông thường
đồng tuyến, nghĩa là trong vòng 7 đến 10 năm, phải đưa được khoảng 90%
trong số hơn 44.000 dòng thuế
của các nước ASEAN xuống mức thuế dưới 5%
vào năm 2000 và sau đó sẽ đưa được mức thuế quan bình quân của toàn
ASEAN vào năm 2003 khoảng 2,63%.
Kênh giảm thuế nhanh (còn gọi là kế hoạch giảm thuế quan tăng tốc) có lịch
trình giảm thuế nhanh sẽ được phân định thành hai nấc: các sản phẩm có thuế
suất trên 20% được giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2000 và các sản phẩm có
thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20%
được giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/1998.
Kênh giảm thuế bình thường (còn gọi là chương trình giảm thuế quan theo
lịch trình thông thường) sẽ áp dụng cho tất cả các sản phẩm công nghiệp chế
biến còn lại. Đối với những sản phẩm có thuế suất trên 20%, việc giảm thuế ở

i trừ tạm thời) để tạo điều kiện thuận lợi cho các nước này
Các sản phẩm trong danh mục này sẽ không được hưởng nhượng bộ từ các
nước thành viên và chỉ tồn tại mang tính chất tạm thời, nghĩa là sau 5 năm,
chúng sẽ buộc phải chuyển sang danh mục giảm thuế theo hai kênh đồng tuyến
đã định. Do đó, kể từ 1/1/1996 đến 1/1/2000, danh mục loại trừ tạm thờ
i sẽ phải
chuyển sang danh mục giảm thuế theo CEPT bình quân 20% mỗi năm. Dĩ
nhiên, loại danh mục này không nhiều, chỉ chiếm khoảng 8% tổng số các danh
mục tham gia giảm thuế.
Một vấn đề gây tranh luận nhiều nhất trong việc xây dựng chương trình
CEPT là vấn đề đưa hay không đưa các sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế
biến vào danh mục giảm thuế. Theo Hiệp định CEPT năm 1992, các sản phẩm
nông nghiệp chưa qua chế biến không được đưa vào danh mục giảm thuế theo
CEPT. Nhưng đến tháng 9/1994, các thành viên ASEAN đã đồng ý đưa chúng
vào danh mục này. Do đó, cùng với các danh mục giảm thuế là loại trừ thuế tạm
thời, phạm vi sản phẩm tham gia tiến trình tự do hoá thương mại theo CEPT đã
được mở rộng tới 98% tổng số dòng thuế của toàn khối ASEAN. Các sản phẩm
nông nghiệp chưa qua chế biến c
ũng sẽ được phân định thành ba danh mục:
danh mục giảm thuế, danh mục loại trừ hoàn toàn và một danh mục đặc biệt
khác là danh mục các sản phẩm nông nghiệp nhạy cảm. Trừ một số nhỏ hàng
nông nghiệp chưa qua chế biến được đưa vào danh mục loại trừ hoàn toàn, hiện
hành nông nghiệp chưa qua chế biến của toàn bộ ASEAN bao gồm 1823 dòng
thuế, chiếm 4% tổng số dòng thuế sẽ gi
ảm theo CEPT của các quốc gia này.
Các sản phẩm thuộc danh mục nhạy cảm là đối tượng cần có cơ chế tự do hoá
riêng phù hợp với các quy định của Hiệp định về nông sản của WTO. Tuy
nhiên, mức cam kết giảm thuế của các sản phẩm thuộc danh mục này ở ASEAN
sẽ cao hơn mức mà các nước thành viên đã cam kết tại vòng đàm phán
Urugoay. Đến nay, theo đề xuất của các quốc gia thành viên, những m

định các sản phẩm có đủ điều kiện hưởng thuế quan ưu đãi theo chương trình
CEPT hay không, mỗi nước thành viên hàng năm phải công bố "tài liệu trao đổi
ưu đãi CEPT" trong đó cần thể hiện được mức thuế quan của các sản phẩm theo
CEPT và các sản phẩm có đủ đ
iều kiện ưu đãi.
Tóm lại, CEPT được thực hiện sẽ đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại
trong nội bộ ASEAN. Bởi vì dựa vào các kế hoạch giảm thuế đã được các nước
thành viên ASEAN cam kết theo chương trình CEPT, đến năm 2000 chắc chắn
87,7% tổng số các dòng thuế tham gia giảm thuế sẽ có mức thuế 0-5%. Điều
này hoàn toàn có cơ sở khi mà hiện nay các sản phẩm CEPT đã tă
ng rất nhanh
trong tổng kim ngạch xuất khẩu nội bộ ASEAN, từ 81,38% năm 1994 lên
84,7% năm 1995.
3.2. Huỷ bỏ hạn chế về định lượng hàng rào phi quan thuế

Đây là cơ chế quan trọng thứ hai được tiến hành đồng thời với thực hiện
chương trình CEPT. Các nước thành viên ASEAN sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế
về số lượng đối với các sản phẩm CEPT trên cơ sở chế độ ưu đãi thuế quan
được áp dụng cho các sản phẩm đó. Các hàng rào phi quan thuế khác cũng sẽ
được xoá bỏ dần dần trong vòng 5 năm sau khi sản phẩm
được hưởng ưu đãi.
Đây là sự hỗ trợ cực kỳ quan trọng cho tiến trình AFTA vì lẽ cắt giảm thuế là
biện pháp cần thiết, đầu tiên song đó không phải là biện pháp duy nhất để thực
hiện tự do hoá thương mại. Các khía cạnh như: các kênh giảm thuế đồng tuyến,
danh mục loại trừ tạm thời, danh mục hàng nông nghiệp chưa qua chế biến... tạo
nên tính kỹ thuậ
t của chính sách tự do hoá thương mại, còn cấu thành nên sự tác
1.
2.
3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

các nước thành viên. Hiện tại, Uỷ ban về tiêu chuẩn Chất lượng của ASEAN
(ACCSQ) đang tiến hành thống nhất hoá các tiêu chuẩ
n về kỹ thuật của các sản
phẩm CEPT thuộc nhóm những hàng hoá có kim ngạch buôn bán lớn giữa các
nước ASEAN. Tất nhiên, ở đây cần phân biệt rõ giữa hàng rào phi quan thuế và
các biện pháp phi quan thuế bởi vì rất nhiều biện pháp phi quan thuế lại có tác
dụng tốt cho việc tạo dựng môi trường thương mại. Ví dụ, chính sách trợ giá
xuất khẩu của Chính phủ, biện pháp chống bán phá giá...
Dĩ nhiên, việc thống nhất và xoá b
ỏ các hàng rào phi quan thuế là một công
việc khó khăn vì ba lý do: thứ nhất, các hàng rào phi quan thuế đa dạng và
thường ẩn dấu đằng sau các chính sách (ví dụ chính sách kiểm dịch, chính sách
duy trì hạn ngạch để hỗ trợ công nghiệp, chính sách đánh giá cao giá trị của
đồng bản tệ...); thứ hai, các bộ luật thuế quan của các nước ASEAN vẫn còn
1.
2.
3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
4.
chưa được điều hoà (Việt Nam theo hệ thống điều hoà thuế quan (HS) 6 chữ số,
Thái Lan là HS-8, Malaysia và Singapore là HS-9...), và theo đó, cơ quan hải
quan trong từng nước thành viên khó có thể áp dụng đúng thuế, đúng sản phẩm.
Thứ ba là, các nguyên tắc về xuất xứ sản phẩm cũng sẽ làm phức tạp hơn các
tình thế xử lý về mặt phi quan thuế theo CEPT khi đầu tư và thương mại giữa
các nướ
c ASEAN trở nên thường xuyên và mật thiết. Để giải quyết các vấn đề
này, phòng Thương mại và Công nghiệp ASEAN có nhiệm vụ đẩy nhanh quá
trình điều hoà các bộ luật thuế quan với sự ưu tiên trước hết giành cho các sản
phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch buôn bán nội bộ ASEAN và
những sản phẩm thuộc 15 danh mục hàng hoá tham gia kênh giảm thuế nhanh
của CEPT. Hội đồng CEPT đã tán thành kế hoạ

1,3
5,3
5,0
3,0
4,5
1,0
4,6
5,0
2,6
4,4
1,0
4,4
5,0
2,4
3,3
0,9
4,1
5,0
2,3
3,3
0,9
3,7
5,0
2,0
3,2
1.
2.
3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
4.
Philipin

quyền số là dòng thuế trong Danh mục cắt giảm ngay (IL) năm 1998.
Chúng ta thấy, thuế quan bình quân ASEAN vào thời điểm này của từng
nước ASEAN-6 đều đã đạt xấp xỉ dưới 5% (ngoại trừ Thailand và Philipin vẫn
còn thuế suất bình quân khá cao). Như vậy có thể nói các nước ASEAN-6 về cơ
bản đã hoàn thành việc chuyển các dòng thuế trong các danh mụ
c, đặc biệt là
Danh mục loại trừ tạm thời sang Danh mục cắt giảm ngay đồng thời giảm thuế
trong Danh mục cắt giảm ngay.
Đối với các thành viên mới, vì thời hạn hoàn thành CEPT còn xa hơn, do đó,
tiến độ chuyển các dòng thuế từ các danh mục, đặc biệt là Danh mục loại trừ
tạm thời sang Danh mục cắt giảm ngay chậm hơn. Tới năm 2000, mới chỉ có
khoảng 50% số
dòng thuế được đưa vào Danh mục này.
Đối với Việt Nam, năm 2000 sẽ đạt 3.573 dòng thuế trên tổng số 4.827 dòng
trong Danh mục cắt giảm ngay, tương đương khoảng 74% tổng số dòng thuế.
Đây là tỷ lệ cao nhất so với các thành viên mới khác của ASEAN. Cũng căn cứ
vào số liệu do Ban thư ký ASEAN cung cấp, trong năm 2000, mức thuế quan
bình quân thực hiện CEPT của Việt Nam đạt 3,4% từ mức 3,9% năm 1999, đây
là m
ột sự cắt giảm đáng kể. So với mức thuế quan bình quân hiện nay tính gia
quyền theo kim ngạch thương mại cho tất cả các dòng thuế (kể cả dòng có thuế
suất bằng 0) trên 11% thì chúng ta đã thực hiện thuế theo CEPT chỉ thấp bằng
1/3 của mức thuế suất bình quân hiện hành áp dụng chung cho các nước có
quan hệ thương mại với Việt Nam.
Trên cơ sở thực hiện Hiệp định CEPT với các n
ước ASEAN, thời gian vừa
qua Việt Nam đã đạt được nhiều thuận lợi về thương mại với các nước ASEAN,
điều dó tạo điều kiện để kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng nhanh
chóng. Khu vực các nước ASEAN đã và sẽ ngày càng chiếm một vị trí quan
trọng trong mối quan hệ thương mại với Việt Nam.

Trên cơ sở này, các nước thành viên ngày càng phát huy được các lợ
i thế so
sánh của mình. Cũng vì vậy, người ta đã dự báo rằng trong những năm đầu
của thế kỷ XXI, ASEAN vẫn là những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao
nhất, vẫn là những nền kinh tế có hiệu suất của khu vực phát triển năng động
nhất thế giới. Với việc Việt Nam gia nhập APEC vào năm 1998, ASEAN ngày
càng có ảnh hưởng đáng kể đối vớ
i Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Khu vực Châu Á
- Thái Bình Dương.
Hiện tại, Hiệp hội ASEAN đã quyết định kết nạp thành viên cuối cùng của
Đông Nam Á là Campuchia vào tổ chức của mình. từ ASEAN - 9 đến ASEAN -
10 và theo đó là việc nghiễm nhiên Campuchia tham gia AFTA, khu vực mậu
dịch tự do ASEAN sẽ được mở rộng về quy mô, đa dạng về trình độ, và là sự bổ
sung về mặt cơ cấu để cả khu vự
c ASEAN thành một thể chế kinh tế thống
nhất. Những kinh nghiệm và các vấn đề bức xúc đặt ra trong tiến trình thực hiện
AFTA hiện nay sẽ là những bài học quý giá cho các thành viên đi sau. Nhìn
1.
2.
3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
4.
chung, triển vọng ở AFTA không phải chỉ là hiệu quả thương mại và đầu tư nội
bộ khu vực mà là ở việc AFTA đã đặt tất cả các nền kinh tế thành viên trước
những sự chuyển đổi cần thiết từ bên trong, tìm được ra những điểm tương
đồng, bổ sung và thúc đẩy nhau với tư cách là một thể chế thống nhất có sức
mạnh và ảnh hưở
ng lớn tới các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu khác.
AFTA với tư cách là một sự nhất thể hoá thị trường khu vực, sẽ làm tăng sự
lệ thuộc lẫn nhau vì sự cần thiết phải phối hợp với nhau về các chính sách kinh
tế. Mọi sự chênh lệch về mức thuế quan sẽ được thu hẹp và khả năng mở ra cho

Đối với doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thương mại chịu hai lo
ại tác
động ngược chiều, tăng khả năng cạnh tranh về giá cả và chịu sức ép cạnh tranh
lớn hơn do xoá bỏ các hàng rào bảo hộ.
Đối với người tiêu dùng, họ sẽ có lợi về giá cả rẻ hơn, chủng loại hàng
1.
2.
3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
4.
hoá phong phú đa dạng hơn. Họ đước quyền lựa chọn lớn hơn và mức độ thoả
mãn trong tiêu dùng cao hơn. CHƯƠNG II:
VIỆC THỰC HIỆN CÁC CAM KẾT CỦA VIỆT NAM
TRONG KHUÔN KHỔ AFTA
1. I. NHỮNG CAM KẾT CỦA VIỆT NAM TRONG KHUÔN KHỔ
AFTA
1. Áp dụng quy chế tối huệ quốc - MFN

Việt Nam cam kết áp dụng trên cơ sở có đi có lại, ưu đãi tối huệ quốc và ưu
đãi quốc gia cho các nước thành viên ASEAN, cung cấp các thông tin phù hợp
về chính sách thương mại theo yêu cầu. Có thể nói, hợp tác kinh tế là quá trình
hợp tác trên cơ sở "có đi có lại", trong đó các nước thành viên giành sự đối xử
ưu đãi cho nhau trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc của tổ chức, chấp nhận các
luật lệ và t
ập quán quốc tế. Quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư trong tổ
chức ASEAN nói riêng và APEC, GATT, WTO nói chung đều được thực hiện
trên cơ sở giải thoát các nước ra khỏi tình trạng phân biệt đối xử nghiêm trọng
trong các quan hệ thương mại gây cản trở lớn cho phát triển kinh tế thế giới,

8Lào và Myanma sẽ tối đa số dòng thuế
0 - 5% vào năm 2005, mở rộng số
dòng thuế 0% vào năm 2008
Tại Hội nghị AEM Retreat (3/1999), các Bộ trưởng kinh tế ASEAN đã đặt
mục tiêu phấn đấu đạt 60% số dòng thuế trong Danh mục cắt giảm thuế (IL)
có thuế suất 0% vào năm 2003.
 Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) gồm những mặt hàng sẽ được loại trừ
vĩnh viễn ra khỏi chương trình CEPT. Danh mục này được xây dựng phù hợp
vớ
i điểm 9 của Hiệp định CEPT và bao gồm những nhóm mặt hàng có ảnh
hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc sống và sức khoẻ con
người, động vật, thực vật, các giá trị lịch sử, văn hoá, giáo dục, nghệ thuật
của mỗi nước… Danh mục loại trừ hoàn toàn của Việt Nam ban đầu gồm 213
dòng thuế, chiếm 6,2% tổng số dòng thuế của biểu thu
ế nhập khẩu. Sau đó
được chuyển bớt một số sang Danh mục loại trừ tạm thời và cơ cấu lại còn
127 dòng thuế.
 Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) chủ yếu được sử dụng để nhằm đạt được
yêu cầu không ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách và bảo hộ các ngành
sản xuất trong nước. Danh mục này gồm các sản phẩm mà các nướ
c ASEAN
chưa sẵn sàng cắt giảm thuế ngay. Trong vòng 5 năm, kể từ 1/1/1996 (đối với
Việt Nam là 1/1/1999), các sản phẩm thuộc danh mục này phải được chuyển
dần vào Danh mục giảm thuế, mỗi năm 20% số sản phẩm trong Danh mục.
Đối với các sản phẩm có thuế suất trên 20% và được chuyển sang Danh mục
giảm thuế trước 1/1/1998, đến 1/1/1998 thuế suất phải được giảm xuống
20%. Đố
i với các sản phẩm được chuyển sang Danh mục giảm thuế sau
1/1/1998, thuế suất khi đưa vào phải bằng hoặc nhỏ hơn 20%, để từ đó giảm
tiếp xuống 0 - 5%. Danh mục loại trừ tạm thời của Việt Nam bao gồm 1147

Nam là 2013). Đây là các mặt hàng quan tr
ọng đối với mỗi nước nên thường
được bảo hộ rất cao, vì thế bên cạnh thời hạn giảm thuế, các mặt hàng này
còn cần phải có thoả thuận cụ thể về thuế suất bắt đầu thực hiện giảm thuế và
các chế độ đãi ngộ khác. sống ngành.
 Danh mục cắt giảm thuế quan chủ yếu bao gồm các mặt hàng hiện đang có
thuế
suất thấp hơn 20% và một số mặt hàng có thuế suất cao hơn nhưng Việt
Nam đang có lợi thế xuất khẩu.
Việt Nam đã đưa ra nội dung và kế hoạch thực hiện chương trình cắt giảm
thuế quan nhập khẩu theo cam kết CEPT/AFTA trong năm 2000 và những năm
sau đó. Theo Tổng cục thuế - Bộ Tài chính đến hết năm 1999, Việt Nam đã cắt
giảm thuế 3.580 mặ
t hàng, chiếm 60 % tổng số dòng thuế dự kiến đưa vào thực
hiện , Danh mục nhạy cảm của Việt Nam gồm 23 dòng thuế, bao gồm các mặt
hàng như: các loại thịt, trứng gia cẩm, động vật thóc, gạo lức, đường ăn,… Các
mặt hàng này hiện đang được áp dụng các biện pháp phi thuế quan như quản lý
theo hạn ngạch, quản lý của Bộ chuyên chương trình cắt giảm thuế. Trong năm
2000, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ phê chuẩn ban hành danh mục CEPT.
1.
2.
3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
4.
Danh mục CEPT 2000 của Việt Nam gồm khoảng 4.230 dòng thuế, trong đó có
hơn 640 dòng mới chuyển từ danh mục loại trừ tạm thời vào thực hiện CEPT
2000, đạt 65% tổng số dòng thuế dự kiến đưa vào cắt giảm theo cam kết với các
nước ASEAN với khoảng 2.960 dòng thuế có mức thuế suất từ 0 - 5% và 1.270
dòng thuế có thuế suất từ 5 - 50%.
So sánh mục tiêu chủ yếu của Chương trình cắt giả
m thuế quan CEPT là các

Ngoài ra khi cân nhắc, xem xét để thực hiện chương trình cắt giảm thuế theo
Hiệp định CEPT một vấn đề nữa cũng được đặt ra là Biểu thuế nhập khẩu của
Vi
ệt Nam có một số điểm không thật sự phù hợp với thông lệ quốc tế do đó gây
khó khăn khi Việt Nam tham gia thực hiện các Hiệp định quốc tế như Hiệp định
CEPT. Trong quá trình xây dựng các Danh mục hàng hoá và chương trình giảm
thuế theo Hiệp định CEPT, chúng ta đã gặp không ít khó khăn do xuất phát
điểm của nền kinh tế Việt Nam thấp hơn so với các nước thành viên khác. Hơn
1.
2.
3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
4.
nữa về mặt kỹ thuật, ngoài các điểm còn khác biệt về hệ thống thuế áp dụng đối
với hàng xuất nhập khẩu và hệ thống mã số của Biểu thuế Việt Nam so với các
nước ASEAN khác, các thuế suất của Biểu thuế hiện hành đòi hỏi được điều
chỉnh cơ bản để phù hợp với sự phát triển của các ngành sản xuấ
t trong nước.
3. Huỷ bỏ các hạn chế về định lượng và hàng rào phi quan thuế

Các biện pháp phi thuế quan mà các nước ASEAN áp dụng là rất đa dạng,
đặc biệt là các biện pháp về tiêu chuẩn kỹ thuật. Ở Việt Nam, những biện pháp
phi thuế quan còn rất đơn giản và chủ yếu là các biện pháp giấy phép, hạn
ngạch,… Do đó để việc thực hiện loại bỏ các biện pháp phi thuế quan theo Hiệp
định CEPT của Việt Nam có lợi nhất, đáp ứng được yêu cầu của bả
o hộ sản
xuất trong nước, ta đã có phương án nghiên cứu ban hành bổ sung các biện
pháp phi quan thuế tương tự như các nước ASEAN đang áp dụng trước khi loại
bỏ chúng. Chính phủ Việt Nam đã có nỗ lực trong việc huỷ bỏ việc kiểm soát
bằng hạn ngạch trừ một số sản phẩm như gạo và những mặt hàng nước nhập
khẩu phân bổ hạn ngạch cho nướ

Hệ thống các chính sách phi quan thuế được khẩn trương nghiên cứu vì ngoài
mục đích công bố với ASEAN, những định hướng trong chính sách áp dụng và
loại bỏ các biện pháp phi quan thuế cần phải được kết hợp song song với các
biện pháp về thuế để bảo hộ cho các ngành sản xuất trong nước trong một
chừng mực có thể.
Để tiến tới việc hoàn thành AFTA, Điều 5 của Hiệp định CEPT còn xác định
mục tiêu loại bỏ các hàng rào phi thuế quan như hạn chế số lượng, hạn ngạch
giá trị nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu có tác dụng hạn chế định lượng... trong
vòng năm năm sau khi một sản phẩm được hưởng ưu đãi thuế quan. Các nước
đã xác định nhiều biện pháp ảnh hưởng rộng và chủ yếu đối với thương mại
hàng hoá trong khu vực ASEAN là phụ thu hả
i quan và Các hàng rào cản trở
thương mại (TBT). Tại phiên họp Hội đồng AFTA lần thứ tám, các nước
ASEAN đã thống nhất quyết định thời hạn loại bỏ Các hàng rào cản trở thương
mại là hết năm 2003.
Các hàng rào phi thuế quan phổ biến nhất của ASEAN theo dòng thuế
năm 1995
Phụ thu hải quan: 2.683 dòng thuế
Phụ phí: 126 dòng thuế
Nhập khẩu theo kênh độc quyền: 65 dòng thuế
Điều hành của th
ương mại nhà nước: 10 dòng thuế
Các hàng rào cản trở thương mại (TBT): 568 dòng thuế
Yêu cầu về đặc điểm sản phẩm: 407 dòng thuế
Các yêu cầu về tiếp thị: 3 dòng thuế
Các quy định kỹ thuật: 3 dòng thuế
(* nguồn: Ban thư ký ASEAN, 1995)
Về phần mình, Việt Nam đã cam kết đệ trình danh mục hạn chế về số lượng
(QRs) và các hàng rào phi quan thuế khác (NTBs). Song do các biện pháp phi
thuế quan của Việt Nam đơn giả


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status