Tài liệu Luận văn tốt nghiệp “Kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc ở tổng công ty dệt - may Việt Nam” - Pdf 84

II. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC ĐỐI VỚI VIỆT
NAM.
Trước khi tìm hiểu vai trò của xuất khẩu chúng ta phải xác định được
nhiệm vụ của chúng đó là:
- Phải biết khai thác có hiệu quả lợi thế của đất nước, kích thích các ngành
kinh tế phát triển.
- Phải góp phần tăng tích luỹ, mở rộng sản xuất tăng thu nhập cho nền kinh
tế quốc dân.
- Xuất khẩu là cải thiện đời sống nhân dân thông qua việc tạo công ăn việc
làm, tạo nguồn thu nhập.
- Phải biết khai thác những thị trường hiện có và quan tâm tới thị trường
chưa được khai thác.
- Lợi dụng khối lượng mua hàng lớn lao của nước ngoài.
- Tìm thị trường cho sản phẩm khi lượng bán giảm sút.
- Mở rộng nền tảng bán hàng để trải rộng chi phí bán hàng.
- Sử dụng năng lực sản xuất thừa.
- Biết được những phương pháp kỹ thuật tiên tiến được sử dụng ở nước
ngoài.
- Theo dõi sự cạnh tranh của các đối thủ có sản phẩm cùng loại trên thị
trường.
Ngoài ra hoạt động kinh doanh xuất khẩu còn phải có nhiệm vụ góp phần
thực hiện tốt chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước: “Đa dạng hoá và đa
phương hoá quan hệ quốc tế, tăng cường hợp tác khu vực “.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ kể trên thì công tác xuất khẩu phải nhận rõ các
vai trò quan trọng sau:
- Thu ngoại tệ về cho đất nước, đây là nguồn vốn quan trọng để thoả mãn
nhu cầu nhập khẩu và tích luỹ phát triển sản xuất. Thật vậy, nhập khẩu cũng
như vốn đầu tư của một nước thường dựa vào ba nguồn chủ yếu là viện trợ, đi
vay, xuất khẩu.
Trong khi mức viện trợ là bị đọng và có hạn, còn đi vay sẽ tạo thêm gánh
nặng cho nền kinh tế thì xu hướng phát triển xuất khẩu để tự đảm bảo và phát

1.1. thị trường EU:
Thị trường EU với dân số 340 triệu là nơi tiêu thụ lớn và đa dạng các loại
quần áo. Mức tiêu thụ thị trường này là khá cao: 17 kg / người / năm. Ở đây,
người ta có thấy đủ loại hàng hoá từ các nước như Mỹ, Trung Quốc, Nhật,
Hồng Kông, Đài Loan. Hàng năm EU nhập khoảng 63 tỷ USD quần áo vừa
qua hạn ngạch mà EU dành cho công nghệ là 22 nghìn tấn hàng dệt may giá
trị khoảng 450 triệu USD và hiệp định ký cho giai đoạn tới 2001-200 giá trị sẽ
tăng 40% và so với giá trị hiệp định cũ (chi giai đoạn 1996-2000). Đây là thị
trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam và EU ký hiệp định buôn bán dệt
may từ năm 1995 trong đó có hạn ngạch gia công thuần tuý (TPP). Có nghĩa
là khách hàng gửi nguyên phụ liệu từ một nước thứ ba thuê gia công tại Việt
Nam, sau đó xuất sang EU. Còn nếu khách hàng EU gửi nguyên phụ liệu từ
EU sang gia công tại Việt Nam, sau đó xuất ngược lại sang EU thì không tính
vào hạn ngạch. Qua 5 năm thực hiện hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU
sản xuất hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường này đã có bước tiến
vững chắc. Năm 1996 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam
vào EU đạt được khoảng 250 triệu USD, năm 1999 đạt 400 triệu USD và dự
kiến năm 2001 sẽ đạt 650 triệu USD.
Bảng 5: Một số chủng loại hàng đạt mức xuất khẩu cao của Việt Nam
vào EU qua các năm (Đơn vị: Triệu chiếc)
Tên hàng Chủng loại 1998 1999 2000
Jacket Cat 21 8,9 9,4 11,7
T- Shirt Cat 4 2,9 3,71
áo len Cat 5 1,65 1,81
Quần Cat 6 1,65 2,4
áo sơ mi nữ Cat 7 0,91 1,49
áo khoách nữ Cat 15 0,13 0,17
áo dài nữ Cat 26 0,19 0,39
Váy ngắn Cat 27 0,14 0,23
(Nguồn: Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.)

quan hệ buôn bán giữa nước ta và cộng đồng kinh tế Châu Âu.
1.2. Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu may mặc lớn thứ ba thế giới và đây
là thị trường phi hạn ngạch. Nhưng đây cũng là một thị trường khó tính với
những đòi hỏi khắt khe cả về chất lượng và giá cả, họ thường yêu cầu kiểm
4
tra chất lượng chi tiết và quan tâm nhiều tới mẫu mốt. Ví dụ như:
- Đồ lót, tất: mốt chiếm 70,5%
- Quần áo nữ: 56,4%là mốt; 37,5% là giá và còn lại là phẩm chất.
- Comple nam: 50% là phẩm chất; 43,7% là mốt và còn lại là giá cả.
Với dân số khoảng 120 triệu người và mức thu nhập bình quân đầu người
26 nghìn USD/năm thì nhu cầu về may mặc là không nhỏ, hàng năm Nhật
Bản nhập khẩu khoảng 7-8 tỷ USD hàng may mặc. Năm 1997 hàng may Việt
Nam xuất sang Nhật xấp xỉ 130 triệu USD, năm 1999 xuất sang Nhật chiếm
90% kim ngạch của mảng thị trường không hạn ngạch và đạt 500 triệu USD.
Mặt khác, xuất sang Nhật thường là áo Jacket, quần áo sơ mi do các đơn vị
phía Bắc gia công, áo Kimono do các đơn vị phía Nam thực hiện.
Đây tuy là thị trường đòi hỏi cao song cũng đầy hứa hẹn, neus như đầu tư
tốt, nâng cao được chất lượng, mẫu mã phong phú, màu sắc đa dạng, nắm
vững thị hiếu thì có khả năng hàng may mặc của ta sé phát triển mạnh ở thị
trường này.
1.3. Thị trường Hoa Kỳ và Bắc Mỹ
Mỹ là thị trường khá hấp dẫn, lý tưởng của ngành dệt-may vì dân số Mỹ
khá đông, hiện có 253 triệu người, đa số sống ở thành thị có mức thu nhập
quốc dân cao. Do đó người Mỹ có sức mua lớn và nhu cầu đa dạng. Riêng
hàng dệt may nhu cầu nhập khẩu hàng năm lên tới 30-36 tỷ USD như năm
1999 là 34 tỷ USD. Nguồn nhập chủ yếu là từ các nước Châu Á:
Bảng 6: Một số nguồn nhập khẩu chính về hàng may mặc tại Châu Á
của Hoa Kỳ.
Nước Giá trị ( tỷ USD)

trường đầy triển vọng này đang là câu hỏi đặt ra là hết sức cấp bách cho nhiều
nhà quản lý và cả phía doanh nghiệp.
1.4. Thị trường SNG và một số nước Đông Âu
Trong những năm trước khi các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan vỡ thì
tỷ trọng kim ngạch của ta vào thị trường này chiếm vị trí khá lớn và đóng vai
trò quan trọng, xuất khẩu theo những hiệp định hàng đổi hàng. Qua thời gian
dài đó nhà xuất khẩu của ta phần nào nắm bắt được thị hiếu, nhu cầu của
người tiêu dùng ở khu vực này và người tiêu dùng cũng đã phần nào quen với
hàng may mặc của ta. Tuy nhiên, kể từ khi các nước XHCN Đông Âu tan vỡ
thì kim ngạch hàng may mặc của ta vào thị trường này giảm mạnh. Hiện nay,
6
hàng may mặc của ta vào thị trường này chủ yếu do các thương gia buôn theo
từng chuyến còn về phía doanh nghiệp thì chỉ mức thấp do chưa tìm được
phương thức thanh toán hợp lý thây thế cho phương thức hàng đổi hàng trước
đây.
Như vậy có thể nói, với Việt Nam đây là thị trường truyền thống mà mấy
năm vừa qua chúng ta để vượt khỏi tầm tay. Cần nhanh chóng tìm ra giải
pháp cần thiết để nối lại quan hệ với thị trường không kém phần hấp dẫn này.
Các doanh nghiệp cần mạnh dạn triển khai phương thức thanh toán mới phát
huy lợi thế vốn có của ta trong nhiều năm qua trên thị trường này.
1.5. Thị trường các nước ASEAN
Việt Nam đã là thành viên chính thức của ASEAN và đang trên tiến trình
thực hiện AFTA, bên cạnh những cơ hội lớn mở ra cũng còn nhiều thách
thức. Phải tiến hành cắt giảm thuế quan và hàng hoá được lưu chuyển tự do
giữa các nước ASEAN tạo nên sự cạnh tranh gay gắt đối với hàng hoá Việt
Nam, buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực cải tiến công nghệ, áp
dụng phương thức quản lý hiện đại và phải tạo được cho mình một nền tảng
vững chắc về mọi mặt để trụ vững trên thương trường. Sản phẩm có được thị
trường chấp nhận hay không quyết định đến sự tốn tại của Công ty. Dưới sức
ép đó sẽ xoá bỏ đi được các Công ty làm ăn trì trệ. Tuy nhiên về phía Việt

- Các định chế kinh tế như WTO. GSP. MFA, các công ước về lao động, về
sở hữu trí tuệ...
- Các thể chế về khu vực: EU, NAPTA, ASEAN...
- Các thể chế về tài chính: WB,IMF, ADB và các hiệp định liên ngân hàng.
- Các hiệp định về hàng hoá như về cao su thiên nhiên, cà phê, dầu mở ,
hàng dệt may...
- Các trung tâm giao dịch: Sỏ giao dịch hàng hoá ở Luân Đôn, Paris,
Singapore, Chicago...
- Các công hội vận tải biển, tổ chức hàng không quốc tế (ICAO), tổ chức du
lịch quốc tế, các tính chất liên lạc viễn thông quốc tế, các mạng lưới và trung
tâm dịch vụ tiêu thụ...
Hoạt động của các thể chế quốc tế và khu vực đã đưa lại hiệu quả giúp cho
thương mại quốc tế được ổn dịnh và phát triển. Trong tương lai các định chế
8
này sẽ không thể không tham gia một cách tích cực vào các định chế thế giới
và khu vực nói trên.
Với cơ chế hoạt động của thị trường thế giới như vậy đã ảnh hưởng tới
việc sản xuất và tiêu thụ hàng dệt may trên thế giới. Như khu vực EU đã có
các mức thuế ưu đãi đối với hàng dệt may của các nước đang phát triển xuất
khẩu vào thị trường này. Hiệp định các nước EU đã có hiệp định về hàng may
mặc với từng nước cụ thể, dưới các quy định các sản phẩm Dệt may của
Trung Quốc.
Với các định chế này, nó tạo ra sự công bằng giữa các nước có nền công
nghiệp may phát triển và các nước đang phát triển.
Trong bối cảnh chung của thị trường thế giới như hiện nay, tình hình sản
xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cũng có nhiều biến động và nổi
lên một số đặc điểm sau:
+ Năm 2000 đã kết thúc hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU hạn
ngạch 22 nghìn tấn dệt may đạt giá trị 450 triệu. Gần đây, Việt Nam đã ký hiệp
định trong lĩnh vực này cho giai đoạn 2001-2003, điều đó sẽ mở ra một triển

mại - Công nghiệp điều chỉnh cơ chế giao quyền sử dụng hạn ngạch hàng dệt
may xuất đi EU. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp tự quyết định giá cả.
+ Đặc biệt, Viện Mốt của Việt Nam đã đi vào hoạt động đang từng bước
nghiên cứu các kiểu mốt được thịnh hành trên các thị trường thế giới và trong
nước.
+ Hàng may mặc của Việt Nam xuất đi chủ yếu dưới hình thức gia công,
xuất khẩu trực tiếp còn rất thấp. Bên cạnh đó là sự yếu kém trong việc cung
cấp nguyên liệu dầu vào các ngành dệt cho ngành may mặc.
Tính theo kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thì hàng may mặt Việt Nam
có tốc độ tăng trưởng lớn nhất. Năm 1998 tăng gấp 5 lần so với năm 1994.
Đây là con số khả quan đánh giá sự phát triển ngành may mặc xuất khẩu,
song nhìn vào thực tế thì giá trị ngoại tệ thực thu từ gia công đem lại là 150
triệu USD trên tổng giá trị xuất khẩu là 874 triệu USD, còn năm 1999 là 194
triệu USD trên tổng số kim ngạch xuất khẩu là 1,1 tỷ USD thì quả là xuất
khẩu kiểu này không mấy hiệu quả.
Hiện nay năng lực sản xuất hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam có thể
đạt 2,15 tỷ USD. Đó là kết quả của sự đầu tư không ngừng của các doanh
10
nghiệp, xí nghiệp Việt Nam - hầu hết các địa phương đều có xí nghiệp may ra
đời, các xí nghiệp may như : Công ty may 10, Công ty may Việt Tiến, Công
ty may Đức Giang, Công ty may Nhà Bè.. không ngừng cải tiến trang thiết bị,
đào tạo đội ngũ quản lý, công nhân phục vụ quá trình sản xuất tạo ra sản
phẩm chất lượng cao.
Hiệp hội các xí nghiệp may của Việt Nam hoạt động tích cực, mới đây đã
thành lập Viện mốt với nhiệm vụ tạo mốt, mẫu mã kỹ thuật phục vụ các Công
ty may sản xuất có hiệu quả. Bên cạnh sự đầu tư của các doanh nghiệp Việt
Nam các Công ty nước ngoài cũng đã tham gia đáng kể trong việc đầu tư vào
ngành may mặc, nhiều liên doanh trong lĩnh vực may mặc đã đi vào hoạt
động thu kết quả khả quan. Tất cả đã tạo ra một năng lực sản xuất mới cho
ngành may mặc Việt Nam. Quy mô sản xuất được mở rộng, tay nghề công

hoặc thiếu sự phối hợp giữa các khâu trong đầu tư dẫn đến máy móc thiết bị
nhập về rồi mới tính chất đào tạo công nhân. Tình trạng đã dẫn tới thời gian
vay nợ kéo dài nhiều khi ảnh hưởng lớn tới uy tín Công ty vì nguồn vốn vay
đầu tư không được trả đúng hạn thậm chí có trường hợp mất khả năng chi trả.
Khi giao nhận nguyên vật liệu và thành phẩm có trường hợp Công tylàm
hàng gia công trong nước do sơ xuất trong việc cụ thể hoá các chỉ tiêu như :
định mức tiêu hao vật liệu, kiểu cách kết hợ gam màu thời gian và địa điểm
giao nhận, phương thức thanh toán nên khi thực hiện hợp đồng đã để xảy ra
những kết cục tranh chấp đáng tiếc.
Như chúng ta đã biết, hàng may mặc luôn đi kèm với yếu tố thời trang, khi
tham gia thị trường trên thế giới thì các yếu tố đó lại càng phức tạp. Do đó
tăng cường thực hiện chiến lược sản phẩm là con đường thiết thực nhất,
thường xuyên cách tân, thay đổi mẫu mốt, kiểu dáng và nâng cao chất lượng
sản phẩm. Hãy để chính sản phẩm lên tiiếng là việc làm hiệu quả hơn bất cứ
nỗ lực nào. Đây cũng là bí quyết tất cả các doanh nghiệp thành công nhất trên
trường quốc tế.
Học hỏi kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng với nước ngoài
cũng đang được coi là việc làm cần thiết. Công tác đàm phán cần được chuẩn
chu đáo bởi đây sẽ là thời điểm xác định lợi ích kinh tế của các bên. Muốn đạt
được lợi ích lớn trước hết phải có nghệ thuật đàm phán khôn khéo, nhiều khi
khách hàng đang có rất nhiều mối hàng nhưng do nghệ thuật thuyết phục của
ta mà họ vẫn chấp nhận đặt hàng với những điều kiện có lợi cho chúng ta.
Trong đàm phán rất cần thiết phải hiểu rõ đối phương (về văn hoá, tài chính,
12
thái độ, phong tục..); tuỳ theo từng đối tượng mà sử dụng các chiến lược đàm
pháp kiểu cứng, chiến lược đàm phán kiểu mềm hay chiến lược đàm phán
kiểu hợp tác. Ngoài ra còn phải chủ ý tới việc nên áp dụng chiến thuật đàm
phán gì ? chiến thuật tri thức hay chiến thuật tâm lý.
Kinh nghiệm tạo uy tín và tạo khả năng xâm nhập vào thị trường nước
ngoài của các doanh nghiệp thành đạt cho thấy cần phải thực hiện song song

xét vận dụng để sớm tìm ra hướng đi và chỗ đứng vững chắc cho hàng may
Việt Nam trong thị trường may thế giới.
14
I. CHƯƠNG II
II. THỰC TRẠNG KINH DOANH XUẤT KHẨU
HÀNG MAY MẶC Ở TỔNG CÔNG TY DỆT - MAY
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1998-2001.
I. NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ TỔNG CÔNG TY DỆT-MAY VIỆT
NAM.
1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TỔNG CÔNG TY
DỆT-MAY VIỆT NAM:
Ngành Dệt - May xuất khẩu Việt Nam ra đời từ những năm 58 ở miền Bắc
và những năm 70 ở miền Nam, nhưng mãi tới năm 1975 sau khi thống nhất
đất nước thì ngành mới có sự phát triển đáng kể.
Năm 1978, Liên hiệp các xí nghiệp dệt toàn quốc được thành lập trên cơ
sở thống nhất Liên hiệp các xí nghiệp Dệt phía Bắc và Tổng Công ty Dệt phía
Nam, đã phát huy vai trò tích cực trong công tác quản lí ngành kinh tế kĩ
thuật, tạo ra những khả năng liên kết sản xuất giữa hai miền.
Năm 1987-1989, từ tổ chức Liên hiệp các xí nghiệp Dệt chuyển thành Liên
hiệp sản xuất - xuất nhập khẩu Dệt để kết hợp sản xuất và kinh doanh xuất
nhập khẩu. Đến ngày 5/3/1996 Liên hiệp sản xuất, xuất nhập khẩu Dệt được
chuyển thành Tổng Công ty Dệt Việt Nam với chức năng nhiệm vụ là:
- Trung tâm thương mại của ngành dệt, lấy xuất nhập khẩu là trung tâm
hoạt động để thúc đẩy sự phát triển của ngành.
- Làm đầu mối của ngành kinh tế kĩ thuật và là hạt nhân của hiệp hội Dệt
Việt Nam.
Với mô hình này, không đáp ứng được yêu cầu củng cố và phát triển
ngành Dệt, không phát huy được sức mạnh tổng hợp, không tạo được thế và
lực để thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Mặt khác, Nghị định 388/HĐBT ra đời
tạo cho các cơ sở phát huy lợi thế chủ động nhưng lại thiếu sự liên kết với

khoản tại ngân hàng trong nước và nước ngoài theo luật định của Nhà nước,
được tổ chức và hoạt động theo điều lệ Tổng Công ty.
Tổng Công ty Dệt May Việt Nam thực hiện nhiệm vụ kinh doanh hàng
dệt, hàng may mặc (từ đầu tư, sản xuất, cung ứng, tiêu thụ, xuất khẩu, nhập
khẩu), tiến hành các hoạt động kinh doanh ngành nghề khác nhau theo qui
16
định của pháp luật. Liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài
nước. Lựa chọn, khai thác mở rộng thị trường trong và ngoài nước, hướng dẫn
và phân công thị trường cho các đơn vị thành viên. Nghiên cứu ứng dụng
công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, đổi mới công nghệ, thiết bị theo chiến lược
chung. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lí, kĩ thuật và công nhân lành
nghề.
Các ngành nghề kinh doanh cụ thể là : Công nghiệp dệt may : sản xuất
kinh doanh từ nguyên liệu vật tư, thiết bị phụ tùng, phụ liệu hoá chất, thuốc
nhuộm và các sản phẩm cuối cùng của ngành dệt may, xuất nhập khẩu hàng
dệt may gồm các chủng loại tơ, sợi vải hàng may mặc, dệt kim, chỉ khâu,
khăn bông, len thảm đay tơ, tơ tằm, nguyên liệu, thiết bị phụ tùng, phụ liệu
hoá chất, thuốc nhuộm, hàng công nghệ thực phẩm, nông lâm hải sản, thủ
công mĩ nghệ, ô tô xe máy, các mặt hàng công nghiệp tiêu dùng khác, kinh
doanh kho vận, khu ngoại quan. Thiết kế, thi công xây lắp phục vụ ngành dệt
may và xây dựng dân dụng. Dịch vụ khoa học công nghệ, du lịch khách sạn,
nhà hàng văn phòng, vận tải, du lịch lữ hành trong nước, xuất nhập khẩu thiết
bị, phụ tùng ngành dệt may, trang thiết bị văn phòng, thiết bị tạo mẫu thời
trang, phương tiện vận tải, vật liệu điện, điện tử cao su.
Với tổng số vốn khi thành lập là 1.562.500 triệu đồng, trong đó:
-Vốn lưu động: 547.140 triệu đồng
-Vốn cố định : 1.015.360 triệu đồng
Hiện tại, Tổng Công ty có 40 doanh nghiệp thành viên tham gia sản xuất
từ kéo sợi dệt vải, hoàn tất và may mặc, một Công ty tài chính, ba xí nghiệp
sửa chữa và sản xuất phụ tùng, một viện thiết kế kĩ thuật dệt may, một viện

giao, gồm cả phần vốn đầu tư vào doanh nghiệp khác, nhận và sử dụng có
hiệu quả tài nguyên đất đai và các nguồn lực khác do Nhà nước giao để thực
hiện nhiệm vụ kinh doanh và những nhiệm vụ khác được giao.
- Tổ chức quản lí công tác nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật,
khoa học công nghệ và công tác đào tạo cán bộ, bồi dưỡng cán bộ và công
nhân trong Tổng Công ty.Tổ chức các hoạt động dịch vụ thông tin, tư vấn đầu
tư, đào tạo trong và ngoài Tổng Công ty.
- Xác định chiến lược đầu tư, thẩm định các luận chứng hợp tác, đầu tư,
liên doanh với nước ngoài của các doanh nghiệp thành viên trình Nhà nước
xét duyệt, làm chủ các công trình đầu tư mới.
18
- Điều tra nghiên cứu, mở rộng thị trường trong và ngoài nước về cung cấp
vật tư, nguyên liệu chính, thực hiện hợp tác quốc tế, kinh doanh đối ngoại, thị
trường xuất nhập khẩu.
3. HỆ THỐNG CƠ CẤU TỔ CHỨC, CHỨC NĂNG CÁC PHÒNG BAN CỦA
TỔNG CÔNG TY DỆT-MAY VIỆT NAM
Hệ thống tổ chức của Tổng Công ty gồm có:
- Hội đồng quản trị, ban kiểm soát
- Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc
- Các đơn vị thành viên Tổng Công ty
Hội đồng quản trị thực hiện chức năng quản lí các hoạt động của Tổng
Công ty, chịu trách nhiệm về sự phát triển của Tổng Công ty theo nhiệm vụ
của Nhà nước giao.
Ban kiểm soát thực hiện nhiệm vụ do Hội đồng quản trị giao về việc kiểm
tra giám sát hoạt động điều hành của Tổng giám đốc, bộ máy giúp việc và
các đơn vị thành viên Tổng Công ty trong hoạt động tài chính, chấp hành
pháp luật, điều lệ Tổng Công ty, các nghị quyết và quyết định của Hội đồng
quản trị.
Tổng giám đốc do Thủ Tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm khen
thưởng, kỉ luật theo đề nghị của Hội đồng quản trị. Tổng giám đốc là đại diện

- Văn phòng Tổng Công ty
- Ban khoa học công nghệ và môi trường
- Ban xuất nhập khẩu
Ban tổ chức cán bộ lao động: có chức năng tham mưu giúp việc cho Tổng
giám đốc và hội đồng quản trị trong các lĩnh vực tổ chức cán bộ, đào tạo công
tác lao động tiền lương và công tác thanh tra, góp phần bảo đảm cho công tác
quản lí của Tổng Công ty hoạt động thông suốt và có hiệu quả.
Ban kế hoạch tài chính: Là bộ môn nghiệp vụ có chức năng tham mưu
giúp Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị trong các lĩnh vực kế hoạch, kế
hoạch dài hạn, kế hoạch hàng năm trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng toàn Tổng
Công ty.
20
Ban tài chính kế toán: Là cơ quan chuyên môn của Tổng Công ty tham
mưu giúp ban lãnh đạo Tổng Công ty thực hiện hai chức năng chủ yếu sau:
- Quản lí các đơn vị thành viên của Tổng Công ty về tài chính, kế toán,
giá cả trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ bản, hành chính
sự nghiệp.
-Tổ chức thực hiện công tác tài chính kế toán, giá cả và tín dụng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư xây dựng cơ bản của cơ quan Tổng
Công ty.
Văn phòng Tổng Công ty: Là bộ môn chức năng tham mưu giúp việc
Tổng giám đốc và hội đồng quản trị trong lĩnh vực hành chính quản trị, tổng
hợp, làm cầu nối giữa Nhà nước với Tổng Công ty và kinh doanh trong lĩnh
vực đối nội đối ngoại, bảo đảm cho hoạt động của Tổng Công ty được tiến
hành có hiệu quả.
Ban kỹ thuật đầu tư: Có chức năng tham mưu giúp Tổng giám đốc và hội
đồng quản trị trong lĩnh vực quản lí khoa học công nghệ-môi trường và công
tác chất lượng sản phẩm của Tổng Công ty.
Ban xuất nhập khẩu: Là bộ môn chức năng tham mưu giúp việc cho Tổng
giám đốc và Hội đồng quản trị trong lĩnh vực quản lí ngành. Giúp đỡ các đơn

( Sơ đồ cơ cấu tổ chức Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam - Xem trang sau)
BẢNG 1: SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC TỔNG CÔNG TY DỆT MAY
VIỆT NAM
4. ĐẶC ĐIỂM VÀ XU THẾ NGÀNH MAY VIỆT NAM.
4.1. Đặc điểm.
Ngành may Việt nam có truyền thống lâu đời gắn bó với truyền thống
nhân dân từ nông thôn đến thành thị, đóng một vai trò quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân nhằm đảm bảo hàng hoá cho tiêu dùng trong nước, có điều
kiện mở rộng thương mại quốc tế, thu hút nhiều lao động tạo ra ưu thế cạnh
tranh cho sản phẩm xuất khẩu, hàng năm mang về cho Nhà nước một lượng
ngoại tệ đáng kể, kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng sau dầu khí và đã trở thành
22
một ngành công nghiệp then chốt của nước ta. Đây là một ngành phù hợp với
điều kiện nền kinh tế nước ta, vì:
Một là: Sản xuất hàng may mặc cần nhiều lao động, không đòi hỏi trình
độ tay nghề cao. Trong khi lao động giản đơn ở nước ta thừa rất nhiều. Hơn
nữa, để đào tạo một lao động trong ngành may mặc chỉ cần từ hai đến hai
tháng rưỡi và lao động trong ngành may mặc thường sử dụng nhiều nữ.
Hai là: Vốn đầu tư cho một chỗ làm việc ít, đồng thời ngành may mặc
có thể tạo nhiều công ăn việc làm so với các ngành khác với cùng một lượng
vốn đầu tư, thời gian thu hồi vốn nhanh. Chỉ cần khoảng 700-800 USD là có
thể tạo ra một chỗ làm trong ngành may, so với 1500-1700 USD để cho một
nông dân có thể cấy ở vùng Đồng Tháp Mười. Thời hạn thu hồi vốn chỉ 3-3,5
năm.
Ba là: Thị trường rộng lớn ở cả trong và ngoài nước. Ở trong nước thì
đời sống nhân dân được nâng lên, nhu cầu về mặc chuyển từ “ấm” sang
“đẹp”, “mốt” tức là nhu cầu hàng may mặc ngày càng tăng và nhanh biến đổi.
Còn trên thế giới thì xu thế ngành may mặc phổ thông đang chuyển dần sang
các nước đang phát triển do ở những nước này có lợi thế về lao động rẻ hơn
những nước phát triển.

đơn giản như vỏ chăn, áo gối, quần áo ngủ, quần áo học sinh... đến nay đã
may được nhiều mặt hàng cao cấp được nguời tiêu dùng chấp nhận, khách
nước ngoài tín nhiệm đặt hàng đi tiêu thụ tại các thị trường khó tính trên thế
giới.
Tính đến năm 1998, sản phẩm may Việt Nam đã xuất khẩu sang 46 nước,
riêng thị trường EU chiếm 40%, tiếp sau là Nhật Bản 16%, Đài Loan 11%,
Hàn Quốc 9%, các nước SNG 6%, các nước khác 8%. Ngoài ra còn có Nauy
và Canada cấp hạn ngạch xuất khẩu hàng may cho ta. Việc có được hạn ngạch
may là rất có ý nghĩa, đặc biệt là hiệp định may với EC (European
community), nay đổi là EU (European Union) bởi vì:
Thứ nhất: EU là thị trường rất rộng lớn, khả năng tài chính, tiêu thụ
cũng rất lớn. Một thị trường với hơn 350 triệu dân có mức sống cao, nhu cầu
về hàng may mặc hàng năm lên tới 22-23 ngàn tấn vải, quả là một thị trường
lý tưởng cho ngành may Việt Nam.
Thứ hai: là hiệp định may tạo ra thị trường ổn định để phát triển ngành
24
may, trị giá hạn ngạch lên tới 300-400 triệu USD/năm. Đồng thời thị trường
hạn ngạch thường hiệu quả hơn vì có giá ổn định và cao hơn. Ví dụ: giá gia
công một chiếc Jackét ( cat 21) ở thị trường EC là 4,2-4,6 USD thì ở thị
trường khác chỉ 2,5-2,8 USD.
Thứ ba: là phần nào khẳng định uy tín chất lượng của hàng may mặc
Việt Nam trên thị trường thế giới. Có hạn ngạch tức là khách hàng sẽ tìm đến
chứ không chỉ người sản xuất Việt Nam đi tìm khách như trước nữa.
Ngành may Việt nam cũng đẩy mạnh xuất khẩu theo hình thức gia công
hoặc phương thức thương mại thông thường với một số nước có nền công
nghiệp phát triển như Nhật Bản, Canada, các nước công nghiệp mới như Đài
Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapo và gần đây khi Mỹ bỏ cấm vận và bình
thường hoá quan hệ đối với Việt Nam, hàng may của ta có thêm thị trường
Mỹ. Tuy có những thuận lợi trong việc mở rộng thị trường nhưng thử thách
đối với hàng may của ta với thị trường thế giới còn rất lớn. Đó là khả năng


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status