Một số giải pháp đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng ngân hàng nông nghiệp và phát triêng nông thôn Thủ Đô - Pdf 88

LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường tất yếu và bắt buộc đối với Việt Nam
trên con đường phát triển. Chúng ta đang tham gia vào các tổ chức Hiệp hội Kinh tế
trên thế giới như là :APEC, ASEAN, Hiệp định thương mại Việt –Mỹ và nhất là
WTO. Hội nhập sẽ mở ra cho chúng ta không ít cơ hội nhưng cũng đầy cam go và
thách thức ngành ngân hàng nói chung và NHNo&PNTN Việt Nam nói riêng cũng
không thóat khỏi xu thế đó.
Truớc tình hình đó, NHNo&PTNT Thủ Đô –nằm trong hệ thống chi nhánh
của NHNo&PTNT Việt Nam đặt ra mục tiêu phải đầu tư nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của mình trên thị trường. Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng, được
việc trực tiếp với các anh chị cán bộ Ngân hàng, đã giúp em hiểu rõ hơn về tình hình
họat động cũng như những khó khăn, hạn chế còn vướng mắc trong quá trình đầu tư
nâng cao năng lựuc cạnh tranh của Ngân hàng. Với những kiến thức đã được trang bị
và xin góp một vài ý kiến trong quá trình đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của
Ngân hàng, em đã lựa chọn đề tài:”Một số giải pháp đầu tư nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Thủ Đô”.
Kết cấu của chuyên đề bao gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận về đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại các
NHTM.
Chương II: Thực trạng đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của chi
nhánh Ngân hàng No&PTNT Thủ Đô
Chương III:Giải pháp đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Thủ Đô
CHƯƠNG I:LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung và Ngân hàng nói
riêng
1.1.1.Khái niệm cạnh tranh:
Trong thế kỷ XX, nhiều lý thuyết cạnh tranh hiện đại đã ra đời như lý thuyết
của Micheal Porter,J.B.Barney,… Trong đó phải kể đến lý thuyết “lợi thế cạnh
tranh”của Micheal Porter, ông giải thích hiện tượng khi doanh nghiệp tham gia cạnh

các công cụ hỗ trợ bán như :Quảng cáo, khuyến mại, cung cấp dịch vụ, ưu đãi giá
bán, đây là loại hình cạnh tranh phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
-Cạnh tranh hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh giữa nhiều người bán trên thị
trường trong đó không người nào có đủ ưu thế khống chế giá cả trên thị trường. Các
sản phẩm bán ra đều được người mua xem là đồng thức, tức là không khác nhau về
quy cách, phẩm chất mẫu mã. Để chiến thắng trong cuộc cạnh tranh các doanh
nghiệp buộc phải tìm cách giảm chi phí, hạ giá thành hoặc làm khác biệt các sản
phẩm của mình so với các đối thủ cạnh tranh.
-Cạnh tranh độc quyền: trên thị trường chỉ có một hoặc một số ít người bán
một sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó trên thị trường sẽ do họ quyết định không phụ
thuộc vào quan hệ cung cầu.
• Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế:
Cạnh tranh được phân thành hai loại:
-Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hóa hoặc dịch vụ. Kết quả của
cuộc cạnh tranh này làm cho kỹ thuật phát triển.
-Cạnh tranh giữa các ngành: là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
các ngành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình này có
sự phân bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giữa các ngành, kết quả là hình thành tỷ
suất lợi nhuận bình quân.
• Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường:
Cạnh tranh được chia làm 3 loại:
- Cạnh tranh giữa người mua và người bán: người bán muốn bán hàng hóa của
mình với giá cao nhất, còn người mua muốn mua với giá thấp nhất. Giá cả cuối cùng
được hình thành sau quá trình thương lượng giữa hai bên.
-Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: mức độ cạnh tranh phụ thuộc
vào quan hệ cung cầu trên thị trường. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh trở
nên gay gắt, giá cả hàng hóa và dịch vụ sẽ tăng lên, người mua phải chấp nhận giá
cao để mua được hàng hóa mà họ cần.
-Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: là cuộc cạnh tranh nhằm giành

các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm , dịch vụ thanh toán
và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế (Quản trị NHTM-Peter Rose).
1.1.3.2.Khái niệm năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực Ngân hàng :
Cho đến nay, tất cả các nghiên cứu đều thống nhất rằng rất khó có thể đưa ra
một định nghĩa chuẩn về khái niệm năng lực cạnh tranh đúng cho mọi trường hợp.
Tuy nhiên, đối với từng đối tượng nghiên cứu, vẫn cần đưa ra một định nghĩa về
năng lực cạnh tranh của một quốc gia, một ngành hay một doanh nghiệp một cách
chính xác làm căn cứ khoa học cho việc đưa ra những chính sách, giải pháp hợp lý và
hiệu quả. Như vậy, năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại có thể được
định nghĩa như sau :”Năng lực cạnh tranh của một NHTM là khả năng ngân hàng đó
tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế nhằm duy trì và mở rộng thị phần, đạt được
mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình của ngành và liên tục tăng đồng thời đảm bảo
sự hoạt động an toàn và lành mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua nhữg biến cố,
bất lợi của môi trường kinh doanh “ (PGS.TS.Nguyễn Thị Quy-Năng lực cạnh tranh
của các NHTM trong xu thế hội nhập).
1.1.3.3.Đặc điểm trong cạnh tranh Ngân hàng:
Như các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế thị truờng, các NHTM luôn
phải đối mặt với cạnh tranh từ các đối thủ để tranh giành thị phần lẫn nhau. Nhưng so
với các loại hình kinh tế khác, cạnh tranh trong lĩnh vực Ngân hàng có những đặc thù
riêng:
• Do hoạt động Ngân hàng mang tính hệ thống rất cao, nếu năng lực cạnh
tranh của một Ngân hàng yếu dẫn đến khó khăn, sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến thị truờng tiền tệ, và có ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Vì vậy, hoạt
động của các Ngân hàng phải tuân thủ theo pháp luật.
• Hoạt động Ngân hàng có liên quan đến nhiều tổ chức kinh tế, chính trị, xã
hội và các cá nhân. Nếu một Ngân hàng đổ vỡ sẽ ảnh hưởng đến các Ngân
hàng khác. Vì thế trong các hoạt động của Ngân hàng, đi liền với cạnh
tranh lẫn nhau là hợp tác với nhau, nhằm huớng đến môi trường cạnh tranh
lành mạnh hơn.

các NHTM khác, không những thế, các tổ chức tài chính phi NH cũng sẽ
bị “vạ lây”. Đây quả là điều mà các NHTM không bao giờ mong muốn.
Chính vì vậy, các NHTM trong kinh doanh luôn vừa phải cạnh tranh lẫn
nhau để dành giật thị phần, nhưng luôn phải hợp tác với nhau, nhằm hướng
tới một môi trường lành mạnh để tránh rủi ro hệ thống.
• Do hoạt động của các NHTM có liên quan đến tất cả các chủ thể, đến mọi
mặt hoạt động kinh tế – xã hội, cho nên, để tránh sự hoạt động của các
NHTM mạo hiểm nguy cơ đổ vỡ hệ thống, tất cả Ngân hàng Trung ương
(NHTW) các nước đều có sự giám sát chặt chẽ thị trường này và đưa ra hệ
thống cảnh báo sớm để phòng ngừa rủi ro. Thực tiễn đã chỉ ra những bài
học đắt giá, khi mà NHTW thờ ơ trước những diễn biến bất lợi của thị
trường đã dẫn đến hậu quả là sự đổ vỡ của thị trường tài chính – tiền tệ
làm suy sụp toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, nên sự cạnh tranh
trong hệ thống các NHTM không thể dẫn đến làm suy yếu và thôn tính lẫn
nhau như các loại hình kinh doanh khác trong nền kinh tế.
• Hoạt động của các NHTM liên quan đến lưu chuyển tiền tệ, không chỉ
trong phạm vi một nước, mà có liên quan đến nhiều nước để hỗ trợ cho các
hoạt động kinh tế đối ngoại; do vậy, kinh doanh trong hệ thống NHTM
chịu sự chi phối của nhiều yếu tố trong nước và quốc tế, như: Môi trường
pháp luật, tập quán kinh doanh của các nước, các thông lệ quốc tế… đặc
biệt là, nó chịu sự chi phối mạnh mẽ của điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính,
trong đó công nghệ thông tin đóng vai trò cực kỳ quan trọng, có tính chất
quyết định đối với hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng này. Điều đó
cũng có nghĩa là, sự cạnh tranh trong hệ thống các NHTM trước hết phải
chịu sự điều chỉnh bởi rất nhiều thông lệ, tập quán kinh doanh tiền tệ của
các nước, sự cạnh tranh trước hết phải dựa trên nền tảng kỹ thuật công
nghệ đáp ứng được yêu cầu của hoạt động kinh doanh tối thiểu; bởi vì, một
NHTM mở ra một loại hình dịch vụ cung ứng cho khách hàng là đã phải
chấp nhận cạnh tranh với các NHTM khác đang hoạt động trong cùng lĩnh
vực. Tuy nhiên, muốn lĩnh vực dịch vụ này được thực hiện thì đòi hỏi phải

thì có thể giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng để cạnh tranh thu hút khách hàng
của ngân hàng khác. Tùy theo mục tiêu điều chỉnh cân đối theo kỳ hạn và đảm bảo
tính thanh khoản cho khách hàng mà ngân hàng điều chỉnh lãi suất huy động và cho
vay phù hợp theo từng thời kỳ nhất định.
Trên thực tế, lãi suất ngân hàng còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như lãi
suất trên thị trường quốc tế hay các chính sách tái chiết khấu, chính sách về tỷ lệ dự
trữ bắt buộc do NHTW ban hành. Vì vậy, trong quá trình điều chỉnh lãi suất cạnh
tranh, các nhà quản trị ngân hàng phải tính đến và dự báo những biến động để đưa ra
những quyết định về lãi suất sao cho hợp lý và có tính cạnh tranh. Thông thường, lãi
suất của các ngân hàng chênh lệch không nhiều và bị ảnh hưởng bởi các ngân hàng
lớn. Việc điều hành lãi suất phải mang tính ổn định để tạo tâm lý an tâm cho khác
hàng vì nếu thay đổi đột ngột trong thời gian ngắn, dễ gây hoang mang cho khách
hàng. Lãi suất chỉ có thể lên, xuống dần dần trong một khoảng thời gian dài.
• Cạnh tranh bằng phí dịch vụ ngân hàng:
Phí dịch vụ ngân hàng là giá mà khách hàng phải trả cho các dịch vụ như mở
tài khoản, nộp tiền, rút tiền, chuyển tiền, phát hành séc thẻ tín dụng. Để cạnh tranh
với các ngân hàng khác thì dịch vụ phải đảm bảo an toàn, nhanh chóng và có mức phí
có thể chấp nhận được. Khả năng hạ phí dịch vụ phụ thuộc vào các yếu tố: chi phí
kinh doanh, doanh số dịch vụ,..
Phí dịch vụ ngân hàng nhìn chung tương đối ổn định. Tùy từng thời điểm,
ngân hàng có thể giảm hoặc tăng phí dịch vụ để tìm kiếm lợi nhuận hay thu hút khách
hàng. Các ngân hàng lớn tăng hay giảm phí dịch vụ thường kèm sự biến đổi của các
ngân hàng khác. Họ có thể tăng phí của các dịch vụ ngân hàng khi nhu cầu dịch vụ đó
tăng cao nhằm tạo lợi nhuận vì khách hàng đang quen sử dụng dịch vụ ngân hàng của
họ và chưa có đủ thời gian để chuyển hướng, khách hàng sẵn sàng chấp nhận mức giá
để thuận lợi trong công việc. Ngân hàng cũng có thể giảm phí các dịch vụ khi “trái
mùa”nhằm thu hút khách hàng.
• Cạnh tranh bằng các dịch vụ:
Dịch vụ có thể chia thành:
-Dich vụ cốt lõi bao gồm công dụng cơ bản của dịch vụ, ví dụ như tài khoản

ngân hàng này mở tài khoản tại các ngân hàng đầu mối ở các nước và hưởng lợi phí
từ các dịch vụ vận chuyển tiền quốc tế hay kinh doanh ngoại tệ,…
Phương thức phục vụ và thanh toán cũng là một công cụ tạo nên sự tiện lợi
cho khách hàng. Phương thức này thể hiện ở 3 giai đoạn của quá trình giao dịch :
trước giao dịch, trong quá trình giao dịch, và sau khi giao dịch.
-Trước giao dịch, ngân hàng thu hút khác hàng đến với mình và tạo điều kiện
thuận lợi cho khách hàng thông qua công tác quảng cáo, tại các điểm giao dịch bố trí
các biển chỉ dẫn cho khách hàng….
-Trong quá trình giao dịch, cán bộ ngân hàng phải thật sự tôn trọng khách
hàng , ân cần, lịch sự, chu đáo, đặt lợi ích khách hàng lên trên. Nhân viên giao dịch
nên tìm hiểu nhu cầu khách hàng và có trách nhiệm tư vấn cho họ để tạo được sự tin
cậy nơi khách hàng …Một hệ thống thanh toán tốt còn đảm bảo công tác quản lý của
ngân hàng.
-Sau khi giao dịch, ngân hàng có thể thực hiện các dịch vụ kèm theo như giao
tiền đến tận nhà người mua, hỏi thăm các khách hàng quan trọng và triển khai cung
ứng các dịch vụ khác cho khách hàng. Những dịch vụ này nếu thực hiện tốt sẽ tăng
uy tín của ngân hàng đối với khách hàng.
• Cạnh tranh về thời cơ thị trường:
Dự báo về thời cơ của thị truờng chính xác sẽ giúp ngân hàng giành chiến
thắng trong cạnh tranh. Cạnh tranh về thời cơ thị trường thể hiện ở chỗ ngân hàng dự
báo được những thay đổi của thị trường để có chính sách khai thác hợp lý sớm hơn
các ngân hàng khác. Tuy nhiên, cạnh tranh về thời cơ thị trường còn đòi hỏi ngân
hàng tìm ra được lợi thế kinh doanh và đi vào khai thác thị trường. Đồng thời, ngân
hàng cũng phải thích ứng nhanh với sự thay đổi.
Sử dụng vũ khí về quảng cáo khuếch trương giúp người dân hiểu biết về các
tiện ích của ngân hàng. Uy tín ngân hàng cũng là yếu tố quan trọng trong cạnh tranh.
Sở dĩ khách hàng muốn ngân hàng là thủ quỹ của khách hàng, đại diện cho khách
hàng trong thanh toán là do sự tin tưởng vào uy tín của ngân hàng. Một ngân hàng
chưa tạo dựng được uy tín thì khách hàng sẽ ít sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Uy tín
là hết sức quan trọng, không chỉ đối với ngân hàng mà còn đối với các doanh nghiệp

việc sử dụng hiệu quả công cụ này đòi hỏi các nhà điều hành phải có tài năng và bản
lĩnh.
Tóm lại, có nhiều vũ khí cạnh tranh để ngân hàng có thể sử dụng. Vấn đề là
hiệu quả của từng loại vũ khí ra sao và làm thế nào để kết hợp chúng, tạo ra hiệu quả
tối đa.
1.1.3.5.Các tiêu thức đánh giá năng lực cạnh tranh NHTM:
1.1.3.5.1.Năng lực tài chính:
Năng lực tài chính của các NHTM được thể hiện qua các yếu tố sau:
*Vốn tự có:
Trong cơ cấu vốn chủ sở hữu thì vốn điều lệ (vốn được ghi trong điều lệ của
Ngân hàng), chiếm tỷ trọng lớn nhất và có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động
kinh doanh của các NHTM. Vốn điều lệ thể hiện khả năng tài chính, năng lực hoạt
động của NHTM, có tác động trực tiếp đến khả năng mở rộng mạng lưới cũng như
quy mô hoạt động của các NH. Vốn điều lệ cao, sẽ giúp Ngân hàng tạo được uy tín
trên thị trường và tạo đuợc lòng tin nơi công chúng.
*Quy mô và khả năng huy động vốn:
Khả năng huy động vốn là một trong những tiêu chí đánh giá tình hình hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng. Khả năng huy động vốn còn thể hiện tính hiệu quả,
năng lực và uy tín Ngân hàng đó trên thị trường. Khả năng huy động vốn tốt cũng có
nghĩa là Ngân hàng đó sử dụng các sản phẩm dịch vụ hay công cụ huy động vốn
hiệu quả, thu hút được khách hàng.
*Khả năng sinh lời: là chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động của Ngân hàng,
đồng thời cũng phản ánh một phần kết quả cạnh tranh của ngân hàng. Mức sinh lời là
thước đo khả năng tạo giá trị cho các cổ đông, tạo vốn kinh doanh bổ sung và duy trì
hay nâng cao thanh danh cho ngân hàng.
Mức sinh lời được phân tích thông qua các thông số sau:
ROE
=
Thu nhập sau thế
Vốn chủ sở hữu

những sản phẩm cơ bản mà còn thể hiện ở sự độc đáo, sự đa dạng của sản phẩm dịch
vụ.
Một NH mà có thể tạo ra sự khác biệt riêng cho từng loại sản phẩm của mình
trên cơ sở sản phẩm truyền thống sẽ làm cho danh mục sản phẩm của mình trở nên đa
dạng hơn, điều này sẽ đáp ứng được hầu hết các nhu cầu khác nhau của khách hàng
khác nhau, từ đó chiếm lĩnh thị trường và từ đó làm tăng sức mạnh cạnh tranh của
NH.
Ngoài ra, các NHTM còn sử dụng các dịch vụ bổ trợ khác để thu hút khách
hàng, tạo thu nhập cho NH, như cung cấp sao kê định kỳ, tư vấn tài chính,…
1.1.3.5.3.Nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực là một nguồn lực không thể thiếu của bất kỳ doanh nghiệp
nào. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp không chỉ
cạnh tranh để giành thị phần trên thị trường hàng hóa dich vụ mà một xu hướng rất
quan trọng đang diễn ra trong thời gian qua là sự cạnh tranh để thu hút nguồn nhân
lực, người lao động đã và đang trở thành nhân tố quyết định trong sự thành bại trong
hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp nói chung và NHTM nói riêng. Nâng
cao năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực một doanh nghiệp nói chung thể hiện ở
những yếu tố sau: số lượng, trình độ đào tạo, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, sự sáng
tạo trong công việc, mức độ hăng say, động cơ phấn đấu và cam kết gắn bó lâu dài.
Nhân sự của một ngân hàng là yếu tố mang tính kết nối các nguồn lực của ngân hàng,
đồng thời cũng là nguồn gốc của mọi cải tiến đổi mới, làm tăng khả năng cạnh tranh.
1.1.3.5.4.Năng lực công nghệ:
Trong lĩnh vực NH thì việc áp dụng công nghệ là một trong những yếu tố tạo
nên sức mạnh cạnh tranh trong NHTM. Để nâng cao chất luợng sản phẩm dịch vụ
nhằm đáp ứng mọi yêu cầu KH thì nhu cầu công nghệ là vô cùng quan trọng. Công
nghệ sẽ giúp phần tạo nên những chuyển biến mang tính độc đáo và tiện ích hơn.
Ngày nay các NHTM đang triển khai phát triển những sản phẩm ứng dụng công
nghệ cao và sử dụng các sản phẩm dịch vụ mang tính chất công nghệ làm thước đo
cho sự cạnh tranh, đặc biệt là trong lĩnh vực sản phẩm điện tử và thanh toán khác.
Trên diễn đàn “banking Vietnam”khẳng định việc sử dụng công nghệ thông

Vì vậy, để tạo được danh tiếng và uy tín trên thương trường, các NHTM phải nỗ lực
và luôn luôn cải biến sản phẩm dịch vụ và nhu cầu ngày càng cao của KH.
Ngày nay, ngoài danh tiếng và uy tín của mình, các NHTM còn phải thể hiện
được sự liên kết lẫn nhau trong hoạt động kinh doanh của mình, sự kiện một NHTM
hợp tác với một tổ chức tín dụng có uy tín và danh tiếng khác trên thuơng trường,
hoặc sự hợp tác chiến lược giữa các NH hay tổ chức tài chính, tập đoàn kinh tế lớn
nào cũng góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM trên thương trường.
1.1.3.6.Những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh Ngân hàng:
1.1.3.6.1.Về thương hiệu:
Trong kinh tế thị trường, thương hiệu có vai trò rất quan trọng đối với sự phát
triển của bất cứ doanh nghiệp nào, nó được coi như một tài sản có giá trị rất lớn bởi
nó có tác động rất lớn đến thái độ và hành vi người tiêu dùng.
Trong lĩnh vực NH, thương hiệu chính là uy tín về chất luợng dịch vụ của một
NH sẵn sàng cung ứng cho xã hội(về mặt này các NHTM Việt Nam chưa có sự chuẩn
bị tốt tuy nhiên gần đây vấn đề thương hiệu đang dần được các NHTM quan tâm
hơn). Do vậy thuơng hiệu có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của các
NHTM trên thị trường tài chính tiền tệ. Một thương hiệu nổi tiếng sẽ hỗ trợ cho NH
thu hút được nhiều khách hàng đến với mình, qua đó NH sẽ có được những KH
truyền thống và lòng trung thành đối với thương hiệu của KH cho phép NH có thể dễ
dự báo và kiểm soát thị trường, hơn nữa, đồng thời nó sẽ tạo nên một rào cản vô
hình, gây khó khăn cho các NH đối thủ khác khi muốn thâm nhập thị trường.
1.1.3.6.2.Về công nghệ:
Sản phẩm NH là loại hình sản phẩm đặc thù mang loại hình công nghệ càng
cao càng hiệu quả và càng bảo mật, các NHTM hiện nay đã và đang cố gắng tạo ra
các sản phẩm tiện ích và đa dạng để cung cấp cho KH như thẻ ATM(Automaitc
Teller Machine), homebanking, phonebanking,…Vì thế đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin trong ngành NH đang là sự quan tâm hàng đầu của các NHTM. Đến
nay hơn 80% các nghiệp vụ NH đã được xử lý bằng máy tính và hầu hết xử lý trên
mậng nội bộ, các giao dịch nghiệp vụ huy động vốn, thanh toán cho vay, kinh doanh
ngoại hối,.. buớc đầu được chuẩn hóa phù hợp với điều kiện của mỗi NHTM.

thương trường. Vì vậy xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực luôn là mối
quan tâm của NH, con người là nhân tố trung tâm của sự phát triển và sẽ phát triển
hơn trong điều kiện môi trường làm việc phù hợp.
Với lực lượng cán bộ quản lý có kinh nghiệm và một trình độ chuyên môn
sâu sẽ rút ngắn được thời gian xử lý công việc, qua đó hiệu quả công việc và chất
lượng công việc sẽ được nâng lên và tạo được niềm tin khách hàng, lúc đó năng lực
cạnh tranh của NH sẽ được nâng lên so với đối thủ cạnh tranh.
1.1.3.6.4.Về giá cả và sự đa dạng hóa dịch vụ sản phẩm:
Kinh tế càng phát triển, sống được nâng lên, nhu cầu đòi hỏi về tính đa dạng
sản phẩm của KH ngày càng cao.
1.1.3.7.Các yếu tố ảnh hưởng năng lực cạnh tranh NH:
1.1.3.7.1.Môi trường kinh doanh:
Môi trường kinh doanh của NHTM thể hiện ở các đặc điểm sau:
-Tình hình kinh tế trong và ngoài nước:
+Nội lực nền kinh tế của một quốc gia được thể hiện qua mức độ quy mô và
tăng trưởng GDP, dự trữ ngoại hối,..
+Độ ổn định của nền kinh tế vĩ mô thông qua các chỉ tiêu: chỉ tiêu lạm phát,
lãi suất, tỷ giá hối đoái, cán cân thanh toán,..
+Độ mở cửa của nền kinh tế thể hiện qua các rào cản, sự gia tăng nguồn vốn
đầu tư trực tiếp, sự gia tăng trong hoạt động xuất nhập khẩu,…
+Tiềm năng tài chính, hiệu quả họat động của các doanh nghiệp hoạt động
trên địa bàn trong nuớc cũng như xu thế chuyển hướng hoạt động của các doanh
nghiệp nước ngoài vào trong nuớc.
Các yếu tố này tác động đến khả năng tích lũy và đầu tư của người dân, khả
năng thu hút tiền gửi và cấp tín dụng của nguời dân và phát triển các sản phẩm của
NHTM, khả năng mở rộng hoặc thu hẹp mạng lưới của NH. Từ đó làm giảm hay tăng
nhu cầu tín dụng, triển khai các dịch vụ, mở rộng thị phần của NHTM. Để đạt được
các mục tiêu trên, NHTM sẽ phải áp dụng các chiến lược khác nhau của mình để
nâng cao khả năng cạnh tranh.
Sự biến động của nền kinh tế sẽ có sự tác động vào lưu lượng vốn của nước

cũng sẽ có những bước chuyển biến tương ứng.
-Các hoạt động giao thương quốc tế ngày càng phát triển làm gia tăng nhu cầu
thanh toán quốc tế qua NH.
-Số lao động di cư giữa các quốc gia có xu hướng tăng nên nhu cầu chuyển
tiền cũng như thanh toán qua NH cũng tăng.
Ngoài ra thị trường tài chính càng phát triển thì NH có nhiều sự lựa chọn. Các
yêu cầu của khách hàng đối với các dịch vụ NH ngày càng cao hơn cả về chất lượng,
giá cả, tiện ích lẫn phong cách phục vụ. Đây chính là áp lực buộc các NHTM phải đổi
mới và hòan thiện mình hơn nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng và nâng cao khả năng
cạnh tranh của mình.
1.1.3.7.4.Sự phát triển của thị trường tài chính và các ngành phụ trợ liên
quan với ngành NH:
Thị trường tài chính trong nước phát triển mạnh cũng là điều kiện để ngành
phát triển và gia tăng cung vào một ngành có lợi nhuận, từ đó dẫn đến mức độ cạnh
tranh cũng gia tăng.
1.2.Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong NHTM:
1.2.1.Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp trong
nền kinh tế:
Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp bao gồm nội dung
sau:
• Đầu tư vào tài sản cố định, đổi mới máy móc thiết bị ở doanh nghiệp
Đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc thiết bị của DN được xem là đầu
tư dài hạn và việc đầu tư này có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của DN trong
tương lai.
Có thể phân biệt nội dung của đầu tư vào TSCĐ theo 2 góc độ.
* Đầu tư vào TSCĐ qua mua sắm trực tiếp:
Đó chính là việc DN bỏ vốn mua lại các cơ sở dã có sẵn để tiếp tục sử dụng và
phát huy hiệu quả của nó. Hình thức này chủ yếu được sử dụng ở các nước phát triển
thông qua sát nhập và thôn tính. Với hình thức này thì DN sẽ chỉ phải bỏ ra một
khoản vốn vừa phải ( ít hơn so với đầu tư mới ) như vậy DN có thể tiết kiệm được

• Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh và
sự phát triển của DN. Nêú thiếu nguồn nhân lực hoặc nguồn nhân lực không đáp ứng
được yêu cầu hoạt động của DN sẽ bị ngừng trệ, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển.
Nguồn nhân lực luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu tại các DN.
Trước tiên, đầu tư phát triển nguồn nhân lực là đầu tư nâng cao chất lượng
nhân lực: đào tạo nâng cao tay nghề và tinh giảm đội ngũ lao động. Hình thức đào tạo
rất phong phú, nhưng chủ yếu là hình thức đào tạo ngắn hạn để kịp thời cho phục vụ
sản xuất kinh doanh đồng thời hình thức đào tạo dài hạn ( hơn 12 tháng ) đang ngày
càng tăng, DN ngày càng quan tâm phát triển nguồn nhân lực một cách toàn diện.
Trong điều kiện hiện nay nhiều DN coi việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực
là chiến lược canh tranh. Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp bao gồm :Cán bộ quản
lí, công nhân sản xuất và cán bộ nghiên cứu khoa học. Đối với từng loại phải có
chính sách đào tạo riêng nhưng đều phải liên tục được tu dưỡng rèn luyện nghiên cứu
học tập.. để nâng cao kinh nghiệm, trình độ tay nghề.
• Đầu tư vào chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là một phạm trù phức tạp mà DN thường hay gặp trong
các lĩnh vực hoạt động của mình.
Chất lượng luôn là một yếu tố quan trọng quyết định đến khả năng cạnh tranh
của DN trên thị trường
Chất lượng hàng hoá tốt sẽ giúp DN tạo uy tín, danh tiếng tốt tới người tiêu
dùng. Là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển lâu dài cho DN.
• Đầu tư vào nghiên cứu và triển khai, đổi mới công nghệ:
Khi DN muốn tạo ra sản phẩm mới và các lĩnh vực hoạt động mới đòi hỏi cần
đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu, triển khai, ứng dụng công nghệ.
Đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ là vô cùng cần thiết đối với các DN,
là con đường nâng cao sức cạnh tranh và khả năng tồn tại phát triển của DN trên thị
trường.Tuy nhiên, đầu tư nghiên cứu hoặc mua công nghệ đòi hỏi vốn lớn và độ rủi
ro cao.
• Đầu tư vào hoạt động Marketing:

Thứ ba,nhờ hội nhập mà các NH trong nuớc có thể thu thút được các nguồn
vốn từ bên ngoài, ứng dụng và tiếp cận được những công nghệ hiện đại tiên tiến vào
quá trình họat động của mình, mở rộng các hoạt động kinh doanh về ngoại hối,chứng
khoán quốc tế, phát triển các dịch vụ ngân hàng mới, tạo điều kiện cho các ngân hàng
trong nuớc đa dạng hóa các hình thức họat động, phân tán và giảm thiểu rủi ro.
Thứ tư,việc hình thành các tập đoàn ngân hàng lớn cùng với quá trình mở rộng
hoạt động của chúng trên thế giới sẽ tạo cho NH sẽ có nhiều lợi thế cạnh tranh cũng
như khả năng đối phó với những biến động thị trường. Sự tham gia của các NH nước
ngoài có tên tuổi này trên thị trường nội địa sẽ có ảnh hưởng tích cực trong việc cải
thiện các quy định phòng ngừa rủi ro, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về kế toán,
công bố công khai. Ngoài ra, những NH ở các nuớc đang phát triển muốn thâm nhập
vào thị trường các nước cần đảm bảo đáp ứng được các yêu cầu và tiêu chuẩn của
những thị trường này mới nhận được giấy phép hoạt động.
• Những thách thức:
Thứ nhất, mở cửa thị trường tài chính làm tăng số lượng các ngân hàng có
tiềm lực về tài chính, công nghệ và trình độ quản lý, áp lực cạnh tranh cũng tăng dần
theo lộ trình nới lỏng các quy định đối với các tổ chức tài chính nước ngoài, nhất là
về mở chi nhánh và điểm giao dịch, phạm vi hoạt động, hạn chế về đối tượng khách
hàng và tiền gửi được phép huy động, khả năg mở rộng dịch vụ ngân hàng trong khi
các tổ chức tài chính việt nam còn nhiều yếu kém:
-Trình độ chuyên môn và trình độ quản lý còn nhiều bất cập, hiệu quả hoạt
động và sức cạnh tranh thấp, nợ quá hạn cao, khả năng chống đỡ rủi ro còn kém, vốn
nhỏ, năng lực tài chính thấp, chất luợng tài sản chưa cao.
-Hoạt động tín dụng đuợc mở ra nhanh chóng nhưng rủi ro tín dụng chưa được
kiểm soát và đánh giá một cách chặt chẽ, chưa phù hợp chuẩn mực quốc tế và yêu
cầu hội nhập.
-Sản phẩm và dịch vụ còn đơn điệu, tính tiện ích chưa cao, chất lượng dịch vụ
thấp. Quy trình quản lí trong các tổ chức tài chính chưa phù hợp với các nguyên tắc
và chuẩn mực quốc tế, tính minh bạch thấp, chưa hình thành môi trường làm việc và
văn hóa kinh doanh lành mạnh do vai trò, trách nhiệm của các vị trí công tác chưa rõ

không chỉ dừng lại ở đầu tư nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ tài chính mà
gồm cả đầu tư nâng cao trình độ kinh tế tổng hợp cho tất cả cán bộ, nhân viên, bởi
vì, có như vậy thì các NHTM mới tư vấn cho KH của mình các định huớng đầu tư
vốn hiệu quả, đồng thời qua đó mới thẩm định chính các dự án đầu tư tín dụng.
Thứ ba, đầu tư nâng cao năng lực tài chính, trong đó quan trọng nhất là vốn
điều lệ.
Vốn điều lệ là một phần rất quan trọng của tài chính NHTM. Chính vì vậy,
đầu tư nâng cao năng lực tài chính chủ yếu là đầu tư nâng cao chất lượng nguồn vốn
bằng một số biện pháp như sau:
-Tăng vốn ngân sách NHà Nước cấp(đối với các NHTM nhà nước)
-Cổ phần hóa NHTM Nhà nước
-Phát hành thêm cổ phiếu mới (đối với các NHTMCổ phần)
-Sáp nhập,hợp nhất các NHTM.
Thứ tư ,đầu tư tăng cường hiệu quả công tác Marketing NH.
Để tăng cường hiệu quả công tác Marketing, NHTM cần phân đoạn chính xác
thị trường, xác định đúng đối tượng khách hàng mục tiêu, từ đó có biện pháp chủ
động tiếp cận khách hàng để giới thiệu các sản phẩm dịch vụ của mình. Ngân hàng
nên đầu tư vào việc quảng bá hình ảnh thông qua các biện pháp: sử dụng quảng cáo
qua các phuơng tiện thông tin đại chúng (báo chí,truyền hình,..), áp dụng marketing
fourmix(product, price, place, promotion). Bên cạnh đó, Ngân hàng nên có sự đầu tư
nâng cao hoạt động “chăm sóc khách hàng” bằng cách đi sâu tìm hiểu KH và thu
nhận các thông tin từ phái KH để có những phương huớng, biện pháp điều chỉnh
thích hợp, từ đó giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM. Nếu hoạt động đầu tư
nâng cao hiệu quả công tác Marketing tốt thì không những tăng uy tín ,thương hiệu
mà còn góp phần giúp NHTM thu được lợi nhuận nhiều hơn, vững mạnh hơn và phát
triển hơn.
1.2.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
của NHTM
1.2.3.1.Nguy cơ từ các ngân hàng mới
Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ, cũng như những hiệp định song phương và


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status