Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh NHNo&PTNT Diễn Châu - Pdf 92

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của chuyên đề
Ở Việt Nam cũng như ở các nước trên toàn thế giới, các doanh nghiệp vừa
và nhỏ ( DNV&N) đang ngày càng khẳng định vai trò của mình đối với nền kinh tế
- xã hội. Theo thống kê, các DNV&N chiếm tới 96% tổng số doanh nghiệp trong
cả nước, đóng góp hơn 28% GDP và thu hút được một lực lượng lao động đáng kể,
tạo nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khai thác những tiềm
năng trong dân cư. Mặc dù vậy, các doanh nghiẹp này vẫn phải đối mặt với nhiều
khó khăn, vướng mắc cần giả quyết, mà trong đó một vấn đề nổi trội là nguồn vốn
để các DNV&N phát triển. Khi các doanh nghiệp này cần vốn, họ thường huy động
từ các nguồn như các cá nhân, doanh nghiệp khác, gia đình, bạn bè và một nguồn
rât quan trọng là từ các NHTM. Các NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc đáp
ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp. Nhưng bên cạnh đó, việc ngân hàng
cho các doanh nghiệp vay vốn ngày càng tăng cũng cần đòi hỏi nâng cao hiệu quả
của hoạt động cho vay để hoạt động kinh doanh của ngân hàng phát triển bền
vững.
Nhận thức được vai trò quan trọng của hoạt động cho vay ngân hàng đối với
các DNV&N cũng như qua khảo sát thực tế về tình hình cho vay tại chi nhánh
NHNo&PTNT Diễn Châu trong thời gian thực tập, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài cho
chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình là: “Nâng cao hiệu quả hoạt động cho
vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh NHNo&PTNT Diễn
Châu”.
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2. Mục đích của chuyên đề
Đảm bảo hiệu quả hoạt động cho vay nói chung và hoạt động cho vay đối
với DNV&N nhỏ riêng là một yêu cầu mang tính chất tất yếu, khách quan của các
NHTM. Tuy nhiên, trong thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT Diễn
Châu, tôi nhận thấy bên cạnh những kết quả thu được thì hoạt động này vẫn còn
bộc lộ nhiều hạn chế. Vì vậy, qua nghiên cứu đề tài này, tôi muốn tìm hiểu về mặt

lại tiêu chí để xác định DNV&N, cụ thể là:
“ Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã
đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10
tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không vượt quá 300 người ”.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Dựa vào tình hình thực tế về điều kiện kinh tế - xã hội của ngành, địa
phương trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể áp
dụng đồng thời cả 2 chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên.
1.1.2. Những đặc điểm chủ yếu của DNV&N:
a. DNV&N có quy mô hoạt động SXKD doanh nhỏ bé
Phần lớn các DNV&N đều có quy mô nhỏ bé. Thực chất thì đặc điểm này do
chính tiêu chí phân loại DNV&N của Nghị định 90/NĐ-CP quy định, đó là các
doanh nghiệp có vốn đăng ký kinh doanh không quá 10 tỷ đồng và lao động trung
bình hàng năm không quá 300 người. Như vậy thì chính quy mô về nguồn vốn và
lao động kéo theo khó khăn về mặt bằng sản xuất kinh doanh, trình độ công nghệ
và năng lực quản lý hạn chế, thiếu thông tin gây ra nhiều yếu kém trong sản xuất
mà trong đó thiếu vốn là đặc điểm nổi bật.
b. Quản lý, điều hành hoạt động SXKD của DNV&N thấp
Hầu hết các DNV&N được thành lập có nguồn vốn dựa vào nguồn vốn tích
lũy cá nhân cộng với tích lũy của gia đình. Do đó, những người điều hành doanh
nghiệp hầu hết có thế mạnh về vốn nhiều hơn là có thế mạnh về năng lực quản lý.
Còn các DNV&N của nhà nước thì lại có nhiều nhà quản lý yếu kém về trình độ
điều hành nên cũng chưa đáp ứng được nhu cầu quản lý doanh nghiệp trong môi
trường cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường như hiện nay, gây khó khăn trong
việc đảm bảo cho doanh nghiệp đứng vững và phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, số người của DNV&N có trình độ, được đào tạo còn ít. Khó
khăn của các doanh nghiệp này là không thu hút được nhiều các cán bộ kỹ thuật
cũng như các nhà quản lý giỏi, những công nhân có tay nghề cao. Từ đó, dẫn đến
năng suất lao động thấp, hiệu quả sử dụng vốn kém ảnh hưởng đến khả năng hoàn

kinh tế. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và đầu tư, mỗi năm các DNV&N đã tạo ra
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khoảng 28% GDP của cả nước, 32% giá trị sản lượng công nghiệp, 64% tổng khối
lượng luân chuyển hàng hóa. Bên cạnh đó, các DNV&N còn có vai trò quan trong
trong việc giữ gìn và bảo tồn các làng nghề truyền thống, phát huy các giá trị văn
hóa dân tộc trong tăng trưởng kinh tế, tạo nên một thế mạnh cho đất nước ta trong
quá trình hội nhập vào khu vực và thế giới.
b. Tạo việc làm và thu nhập cho người lao động
Có thể thấy rằng, vai trò to lớn nhất của các DNV&N là tạo việc làm cho một
số lượng lớn người lao động trong cả nước, giả quyết tình trạng thất nghiệp. Do có
sự phân bố rộng khắp và khá đa dạng trong ngành nghề kinh doanh, hơn nữa lại
không đòi hỏi trình độ quá cao, nên DNV&N đã và đang thu hút được rất nhiều lao
động ở cả thành thị và nông thôn. Đây cũng chính là cơ sở để góp phần quan trọng
nâng cao thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống, đồng thời hạn chế các tệ
nạn xã hội.
Ở Việt Nam, các doanh nghiệp này tiếp nhận khoảng 10 triệu người, chiếm 25-
27% lực lượng lao động cả nước. Ý nghĩa to lớn của các DNV&N trong vấn đề tạo
việc làm còn thể hiện ở triển vọng thu hút thêm lao động làm việc trong các
DNV&N trong tương lai do hiệu suất đầu tư cho một lao động làm việc tại đây
thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp lớn. Đồng thời đây cũng là điều kiện thuận
lợi nhất để tiếp nhận lực lượng lao động dư thừa từ nông thôn đang không ngừng
tăng thêm mỗi năm. Rõ ràng, giả quyết việc làm là một thế mạnh của các DNV&N,
và là nguyên nhân để chúng ta phải quan tâm đặc biệt tới lạo hình doanh nghiệp
này.
c. Thu hút được các nguồn vốn trong dân cư
Hiện nay tiềm lực tài chính trong dân cư còn khá lớn, tuy nhiên lại không tập
trung mà chỉ rải rác với tính chất nhỏ bé, dễ phân tán. Do đặc trưng quy mô nhỏ,
linh hoạt, phân tán ở mọi nơi nên các DNV&N sẽ có tác dụng rất lớn trong việc thu
hút các nguồn vốn này. Mặc dù mỗi nguồn vốn thường có quy mô nhỏ nhưng do

được sử dụng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của doanh nghiệp.
Đối với hoạt động tín dụng thì cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao nhất, và đây
cũng là loại tín dụng có ít rủi ro cho ngân hàng vì trong thời gian ngắn ít có biến
động xảy ra và nếu có biến động xảy ra thì ngân hàng vẫn có thể dự tính được.
- Cho vay trung hạn: là hình thức cho vay có thời hạn từ 1 năm đến dưới 5
năm, chủ yếu là được sử dụng để mua sắm TSCĐ, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở
rộng sản xuất… Loại tín dụng này có mức độ rủi ro không cao vì ngân hàng có khả
năng dự đoán được những biến động có thể xảy ra.
- Cho vay dài hạn: là hình thức cho vay có thời hạn trên 5 năm, được sử
dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất mới…
Loại tín dụng này có mức độ ruuir ro lớn vì trong thời gian dài có nhiều biến động
xảy ra và khó lường trước được.
1.2.1.2. Phân loại theo cách thức cho vay
Nghiệp vụ cho vay có thể thực hiện theo các phương thức sau:
- Cho vay thấu chi: Ngân hàng cho phép khách hàng được chi trội trên số dư
tiền gửi thanh toán của mình đến một thời hạn nhất định trong một khoảng thời
gian nhất định.
- Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của
các NHTM đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, mỗi lần
khách hàng phải làm đơn trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Mỗi món
vay được tách biệt thành các hồ sơ ( khế ước nhận nợ) khác nhau.
- Cho vay hạn mức tín dụng: Ngân hàng cấp cho khách hàng một hạn mức
tín dụng cả kỳ hoặc cuối kỳ. Trường hợp hạn mức trong cả kỳ thì khách hàng có
thể vay trả nhiều lần nhưng dư nợ không vượt quá mức tín dụng. Đối với hạn mức
tín dụng cuối kỳ thì trong kỳ dư nợ tín dụng có thể lớn hơn hạn mức tín dụng
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhưng đến thời điểm cuối kỳ khách hàng bắt buộc phải trả hết nợ sao cho dư nợ
cuối kỳ không vượt quá hạn mức tín dụng.
- Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng

hàng bằng đồng ngoại tệ. Nước ta quy định cho vay bằng ngoại tệ chỉ phục vụ cho
nhập khẩu.
1.2.1.5. Phân loại theo phương pháp hoàn trả
- Cho vay trả góp: là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi
theo định kỳ.
- Cho vay kỳ hạn: là loại cho vay được thanh toán 1 lần theo kỳ hạn đã thỏa
thuận.
- Cho vay hoàn trả theo yêu cầu: là loại cho vay mà người vay có thể hoàn trả
bất cứ khi nào có thu nhập.
1.2.2. Vai trò của vốn vay NHTM đối với DNV&N
Có thể nói, nguồn vốn ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng
nhất không chỉ đối với các DNV&N mà đối với mọi doanh nghiệp và toàn bộ nền
kinh tế. Các NHTM là một tổ chức tài chính trung gian với khả năng huy động vốn
từ nhiều nguồn nhỏ lẻ khác nhau thành một nguồn vốn tập trung, do đó các ngân
hàng luôn có đủ khả năng cung cấp các nguồn tài trở cho doanh nghiệp. Trong các
hình thức tài trở cho doanh nghiệp thì hoạt động cho vay ngân hàng với những ưu
điểm của mình vẫn là nguồn cung cấp vốn cho doanh nghiệp quan trọng nhất. Vấn
đề đặt ra không phải là khả năng cho vay của các NHTM mà chính là khả năng tiếp
cận nguồn vốn này của các DNV&N:
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Thứ nhất: Vốn vay NHTM là một kênh cung cấp vốn quan trọng đối với
DNV&N
Có thể thấy rằng, trong các nguồn huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của các DNV&N thì nguồn vốn ngân hàng đóng vai trò quan trọng nhất do
những ưu điểm của nó. Phần lớn DNV&N là thiếu vốn, trình độ sản xuất công
nghệ thường yếu kém… nên nhu cầu đối với nguồn vốn vay ngân hàng để đầu tư
sản xuất theo chiều sâu hay mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh càng
bức thiết. Muốn đầu tư vào chiều sâu doanh nghiệp dựa trên nguồn tích lũy nội bộ
thì thường cần một thời gian lâu dài, trong khi đây là những yêu cầu bức thiết đặt

trường.
Uy tín của doanh nghiệp cón thể hiện thông qua mối quan hệ với ngân hàng.
Các NHTM thường muốn có các khách hàng trung thành, và ngược lại các doanh
nghiệp cũng muốn là khách hàng lâu dài, thường xuyên của ngân hàng. Điều này
không những giúp doanh nghiệp được hưởng những chính sách ưu đãi khi vay vốn
cũng như sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng mà còn giúp nâng cao uy tín của
doanh nghiệp trong mắt của ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các khách hàng làm
ăn của doanh nghiệp đó. Uy tín của doanh nghiệp sẽ bị giảm sút nếu như không
hoàn trả, hoàn trả không đầy đủ, trả chậm các khoản vay vốn. Có thể nói uy tín của
doanh nghiệp gắn liền với quan hệ này.
- Thứ ba: Vốn vay NHTM giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn
Cho vay ngân hàng không chỉ đáp ứng cho nhu cầu về vốn trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà nó còn là điều kiện để các doanh nghiệp
tìm cho mình các biện pháp để sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả nhất. Một
nguyên tắc có tính chất cơ bản của việc cho vay ngân hàng đó là nguyên tắc hoàn
trẩ đầy đủ cả gốc và lãi vốn vay trong thời gian thỏa thuận. Xuất phát từ đặc điểm
này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tính toán để làm ăn có lãi, đảm bảo tỷ suất lợi
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhuận phải lớn hơn lãi suất ngân hàng thì doanh nghiệp mới có khả năng trả nợ và
tích lũy nguồn vốn. Mỗi đồng vốn vay mà doanh nghiệp vay từ ngân hàng đều
chứa đựng những chí phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sử dụng. Điều này buộc
doanh nghiệp phải sử dụng đồng vốn hiệu quả, tiết kiệm, quản lý chặt chẽ hơn nữa.
Bên cạnh đó, hoạt động cho vay của ngân hàng với quy trình kiểm tra trước,
trong và sau khi cho vay, giám sát chặt chẽ tiến độ mà mục đích sử dụng vốn vay
của doanh nghiệp. Ngân hàng chỉ cấp tín dụng cho những doanh nghiệp có phương
án làm ăn hiệu quả nên ngay từ khâu thẩm định, các doanh nghiệp phải chứng tỏ
phương án sử dụng nguồn vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Cũng
như vậy, trong quá trình sử dụng vốn vay, các doanh nghiệp luôn phải bảo đảm
nguồn vốn đúng mục đích và có hiệu quả, thể hiện một phần thông qua các báo cáo

mỗi ngân hàng, tuy nhiên nó cũng là hoạt động chứa đựng rủi ro nhất. Do đó, để
đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng an toàn và phát triển bền vững
thì việc kiểm tra giám sát và đánh giá các hoạt động cho vay là cần thiết. Hiệu quả
cho vay có thể được đánh giá thông qua các chỉ tiêu sau:
a. Doanh số cho vay
Đây là chỉ tiêu phản ánh quy mô cấp tín dụng của ngân hàng đối với nền
kinh tế, là chỉ tiêu phản ánh chính xác tuyệt đối về hoạt động cho vay trong một
thời gian dài, cho thấy được khả năng hoạt động cho vay qua các thời kỳ. Do đó,
nếu kết hợp doanh số cho vay của các thời kỳ liên tiếp thì có thể thấy được xu
hướng hoạt động tín dụng của NHTM.
b. Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này cũng tương tự như chỉ tiêu doanh số cho vay, tuy nhiên nó là chỉ
tiêu phản ánh khối lượng tiền cấp cho nền kinh tế tại một thời điểm nhất định.
Tổng dư nợ bao gồm: cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Tổng dư nợ thấp
chứng tỏ ngân hàng không có khả năng mở rộng được mạng lưới khách hàng, hoạt
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
động tín dụng yếu kém, khả năng tiếp thị khách hàng kém, không sử dụng được
nguồn lực sẵn có… Tuy nhiên, điều đó cũng không có nghĩa là tỷ lệ này càng cao
thì chất lượng hoạt động cho vay càng tốt bởi vì ngân hàng cho vay vượt mức giới
hạn cũng là lúc ngân hàng bắt đầu chấp nhận những rủi ro về cho vay.
Thực tế, chỉ tiêu tổng dư nợ phản ánh quy mô cho vay của ngân hàng, đồng
thời đây cũng là chỉ tiêu phản ánh uy tín của ngân hàng. Khi so sánh tổng dư nợ
của ngân hàng với thị phần tín dụng của ngân hàng sẽ cho ta biết được dư nợ của
ngân hàng là cao hay thấp.
c. Thu nhập từ hoạt động cho vay
Đối với chỉ tiêu này, ngân hàng thường xem xét thông qua công thức:
Tỷ trọng thu nhập Thu nhập từ hoạt động tín dụng

hoạt động tín dụng Tổng thu nhập

ngắn thì sẽ tạo áp lực về thời gian đối với khách hàng dẫn đến khách hàng khó trả
nợ cho ngân hàng đúng thời hạn. Do đó, ngân hàng phải xác đinh chính xác thời
gian cho vay hợp lý, tọa điều kiện thuận lợi cho khách hàng và chính ban thân
ngân hàng.
- Vòng quay vốn vay: Đây là chỉ tiêu thường được các NHTM tính toán hàng
năm để đánh giá khả năng tổ chức, quản lý vốn vay và hiệu quả cho vay trong việc
đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Vòng quay vốn Doanh số thu nợ trong kỳ

tín dụng Dư nợ bình quân
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Hệ số này phản ánh số vồn chu chuyển của vốn vay, phản ánh tốc độ luân
chuyển vốn nhanh hay chậm. Vòng quay của vốn càng cao chứng tỏ nguồn vay
ngân hàng luân chuyển càng nhanh, tham gia càng nhiều vào chu kỳ sản xuất và
lưu thông hàng hóa. Đồng thời, hệ số này càng tăng phản ánh tình hnh quản lý vốn
vay càng tốt, hiệu quả cho vay càng cao. Chỉ số này cao trước hết thể hiện khả
năng thu nợ tốt và hiệu quả cho vay của ngân hàng. Một đồng vốn khi cho vay
được nhiều lần sẽ đem lại nhiều lợi nhuận hơn. Tuy nhiên, cần xét đến yếu tố quan
trọng là dư nợ bình quân. Khi dư nợ bình quân thấp sẽ làm cho vòng quay lớn
nhưng lại không phản ánh chất lượng của khoản vay đó là cao bởi thực tế nó thể
hiện khả năng cho vay kém của ngân hàng. Đồng thời, nếu tốc độ vòng quay quá
nhanh cũng thể hiện cơ cấu cho vay chưa hợp lý.
f. Tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ Nợ quá hạn

quá hạn Tổng dư nợ
- Đây là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của NHTM ở một
thòi điểm nhất định, thương là cuối tháng, cuối quý hoặc cuối năm. Tỷ lệ nợ quá

động tín dụng của ngân hàng.Chính sách này bao gồm các quy định của ngân hàng
như: quy định mức giới hạn cho vay đối với một khách hàng, kỳ hạn của khoản
vay, lãi suất cho vay và mức lệ phí, các hình thức cho vay, hướng dẫn giải quyết
các khoản nợ có vấn đề… Có thể nói chính sách tín dụng là “ người dẫn đường”
cho các cán bộ tín dụng thực hiện cho vay theo đúng yêu cầu và chiến lược của
ngân hàng. Như vậy, việc đưa ra một chính sách tín dụng hợp lý, mang tính linh
hoạt cao để hoạt động của ngân hàng đạt hiệu quả hơn.
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Thứ ba: Chất lượng của công tác thẩm định dự án
Thẩm định dự án giúp ngân hàng xem xét một cách toàn diện các mặt của dự
án để xác định tính khả thi của dự án, trên cơ sở đó sẽ ra quyết định khách hàng
này có đủ điều kiện để cấp vốn cho vay hay không. Cũng thong qua công tác thẩm
định, ngân hàng với những kinh nghiệm vốn có của mình có thể tư vấn, giúp đỡ
các chủ đầu tư sửa chữa những điểm không hợp lý trong dự án để dự án có tính khả
thi hơn và đồng thời cũng giúp cho ngân hàng có thể mở rộng hoạt động tín dụng
của mình.
Thẩm định là công việc đòi hỏi nhiều thời gian và kỹ thuật tính toán phức
tạp. Do đó công việc này là cơ sở quyết định có cấp vốn cho vay hay không nên
chất lượng của công tác này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hoạt động cho
vay. Nếu chất lượng của công tác thẩm định không cao, tức là cán bộ tín dụng
không xác định thực chất dự án có hiệu quả hay không thì những khoản tín dụng
mà ngân hàng đã cấp sẽ gặp những rắc rối trong việc thu hồi các món nợ của mình.
Chính vì vậy, công tác thẩm định đòi hỏi các cán bộ thẩm định có trình độ cao và
sự kết hợp một cách có hiệu quả giữa các phòng ban trong ngân hàng.
- Thứ tư: Trình độ của đội ngũ cán bộ ngân hàng
Yếu tố mang ý nghĩa quyết định đến việc nâng cao hay suy giảm hiệu quả
hoạt động cho vay lại chính là nguồn nhân lực của ngân hàng vì suy cho đến cùng
các quyết định cung cấp tín dụng của ngân hàng là những quyết định mang tính
chất chủ quan. Một ngân hàng với đội ngũ lãnh đạo tốt sẽ đưa ra những chính sách

cơ chế khoán doanh thu, đây là vấn đề chứa đựng nhiều yếu tố mất an toàn, một
động lực là đảy cán bộ ngân hàng vào tình thế “ bằng mọi giá để cho vay”.
Bên cạnh đó, việc mở rộng tín dụng một cách thái quá, thiếu cơ sở khoa học
và thực tiễn đã dẫn đến tình trạng dư nợ cao, vượt quá khả năng quản lý của cán bộ
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ngân hàng. Việc kiểm tra, theo dõi sự vận động của vốn vay không thường xuyên,
không nắm bắt được tình hình hoạt động của doanh nghiệp cũng làm ảnh hưởng
đến hiệu quả hoạt động cho vay.
b. Các nhân tố từ phía khách hàng
- Thứ nhất: Vốn tự có
Đây là nhân tố quan trọng nhằm bù đắp những rủi ro trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của DNV&N. Một DNV&N có vốn tự có quá bé sẽ ít có khả năng
chống chọi với những biến động lớn của thị trường. Vốn đi vay chỉ là để bổ sung,
hỗ trở cho vốn tự có để doanh nghiệp không bị bế tăc vì thiếu vốn. Nếu vốn đi vay
nhiều, tiền lãi vay lớn, chi phí cao là một nguyên nhân dẫn đến kinh doanh thua lỗ,
không có khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng.
- Thứ hai: Năng lực sản xuất của DN
Năng lực sản xuất của DNV&N biểu hiện giá trị công cụ lao động, chủ yếu
là tài sản cố định, biểu hiện cụ thể là quá trình sản xuất sản phẩm, công nghệ sản
xuất… Cơ cấu và việc làm chủ giá thành sản phẩm. Tiêu thụ sản phẩm tốt nhưng
giá thành lớn hơn giá bán là không tốt. Việc nghiên cứu giá thành và năng lực sản
xuất cho thấy tính cấp thiết và quy mô của đầu tư mới.
- Thứ 3: Năng lực tài chính của DN
Năng lực tài chính của các DNV&N thể hiện ở khối lượng vốn tự có và tỷ
trọng vốn tự có trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp đang sử dụng. Điều kiện
tín dụng quy định một tỷ lệ cụ thể tối thiểu của vốn tự có trong tổng nguồn vốn
hoạt động hay tỷ lệ vốn tự có tương ứng với khối lượng vốn vay, tỷ lệ vốn tự có
tham gia vào dự án vay vốn. Năng lực tài chính của doanh nghiệp còn thể hiện ở
khả năng thanh toán của doanh nghiệp, tính lỏng của tài sản. Năng lực tài chính

22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thời kỳ suy thoái, lạm phát kéo dài khi đó hoạt động tín dụng sẽ gặp nhiều khó
khăn do nhu cầu vay giảm. Ngược lại, trong thời kỳ hưng thịnh, nhu cầu vốn vay
tăng, rủi ro tín dụng giảm.
Hơn nữa, bên cạnh môi trường kinh tế là môi trường xã hội, do quan hệ tín
dụng được thực hiện trên cơ sở lòng tin – đó là lòng tin được thiết lập giữa ngân
hàng và khách hàng. Một môi trường xã hội ổn định và phát triển với những khách
hàng có phẩm chất đạo đức, có trình độ dân trí cao, có hiểu biết về các hoạt động
của ngân hàng, những khách hàng đó sẽ thực hiện hoạt động kinh doanh có hiệu
quả, do vậy sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng.
Như vậy, một môi trường chính trị - xã hội ổn định và phát triến sẽ tạo điều
kiện thúc đẩy các hoạt động kinh doanh có hiệu quả, kinh tế đất nước sẽ phát triển
và do vậy chất lượng tín dụng của ngân hàng cũng được đảm bảo và nâng cao.
- Thứ hai: Môi trường pháp lý:
Các Ngân hàng hoạt động không chỉ chịu sự giám sát của pháp luật mà còn
chịu sự giám sát, điều hành của luật ngân hàng và luật các tổ chức tín dụng. Do đó,
nếu hệ thống pháp luật không đồng bộ sẽ làm cho hoạt động kinh doanh gặp phải
nhiều khó khăn, gây bất lợi cho ngân hàng. Ngược lại, nếu pháp luật tạo môi
trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận lợi và đạt
hiệu quả cao là cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đè khiếu nại khi có tranh chấp
xẩy ra. Bởi thế, chỉ trong điều kiện các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng tuân thủ
pháp luật một cách nghiêm ngặt và đồng thời có một môi trường pháp lý đồng bộ
thì quan hệ tín dụng mới đem lại lợi ích cho cả hai và khi đó hiệu quả của họat
động cho vay mới được đảm bảo.
- Thứ ba: Môi trường tự nhiên :
Đây là nhân tố ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh. Những biến
động bất khả kháng xẩy ra trong môi trương tự nhiên như thiên tai, động đất, hạn
hán, lũ lụt, hỏa hoạn… đều làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của
23

Nghệ An và Ngân hàng nông nghiệp Nghệ Tĩnh. Sau khi tách, Ngân hàng nông
nghiệp Nghệ An còn 17 đơn vị chi nhánh trực thuộc và các chi nhánh được sắp xếp
lại mô hình theo quyết định số 02/NHQĐ, ngày 08/01/1991 của Tổng giám đốc
25

Trích đoạn Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNV&N tại NHNo&PTNT chi nhỏnh Diễn Chõu Đỏnh giỏ hiệu quả hoạt động cho vay đối với DNV&N tại NHNo&PTNT chi nhỏnh Diễn Chõu Định hướng chung về hoạt động của chi nhỏnh trong thời gian tớ Giải phỏp nõng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với DNV&N tại chi nhỏnh NHNo&PTNT Diễn Chõu
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status