Các giải pháp chủ yếu quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần Bảo vệ thực vật 1 Trung ương - Pdf 94

LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế Việt Nam đang trong bối cảnh hội nhập với nền kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng và toàn diện. Việc gia nhập AFTA, WTO giúp chúng ta
thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, tạo động lực thúc
đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển không ngừng. Một chân trời mới đã
mở ra với rất nhiều thuận lợi, cơ hội phát triển nhưng cũng không ít khó khăn
thách thức. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ làm gì để tồn tại và phát triển bền
vững trước sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt và quyết liệt?
Để đạt được những mục tiêu của mình, nhất là mục tiêu lợi nhuận và
tăng trưởng bền vững, đòi hỏi các doanh nghiệp phải động não, tích cực, nhạy
bén, nắm bắt ngay các cơ hội. Nhưng trước hết, vũ khí đắc lực xuất phát từ
nội tại doanh nghiệp đó chính là chất lượng và giá cả. Doanh nghiệp không
những cần sản xuất ra ngày càng nhiều sản phẩm mà còn phải tìm mọi biện
pháp để hạ giá thành sản xuất làm cơ sở cho việc định giá bán. Giá thành
không chỉ là căn cứ lập giá bán mà còn phản ánh kết quả của việc quản lý vật
tư, lao động, tiền vốn tiết kiệm hay lãng phí, từ đó giúp cho các nhà quản lý
biết được nguyên nhân ảnh hưởng đến giá thành để đề ra các biện pháp hữu
hiệu hạ thấp chi phí sản xuất, giảm giá thành sản xuất.
Vấn đề quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp là tìm mọi biện pháp để
nâng cao sức cạnh tranh và uy tín trên thương trường. Để làm được điều đó, các
doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, cải
tiến mẫu mã…nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng và xã
hội. Một trong những biện pháp hữu hiệu đó là phải phấn đấu tiết kiệm chi phí,
hạ giá thành sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Trong qúa trình thực tập tại Công ty Cổ phần Bảo vệ thực vật 1 Trung
ương, em đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý chi phí sản xuất
và hạ giá thành sản phẩm đối với các doanh nghiệp nói chung và đối với Công ty
nói riêng. Vận dụng những kiến thức đã học ở nhà trường, nhờ sự hướng dẫn tận
1
tình của thầy PGS.TS Nguyễn Đăng Nam và các cô chú, các anh chị Phòng tài
chính – kế toán Công ty Cổ phần Bảo vệ thực vật 1 Trung ương, em đã đi sâu vào

doanh nghiệp
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, một mặt doanh nghiệp
tiêu dùng một bộ phận nguồn lực (làm phát sinh chi phí), mặt khác lại tạo ra
nguồn lực mới dưới dạng các sản phẩm, dịch vụ. Đây thực chất là quá trình tiêu
dùng các yếu tố sản xuất kinh doanh (tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức
lao động) để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu sản
xuất và tiêu dùng của xã hội. Các chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra gồm chi
phí cho hoạt động đầu tư dài hạn, chi phí hoạt động kinh doanh và các chi phí
hoạt động kinh tế khác.
Chi phí hoạt động kinh doanh là toàn bộ các chi phí phát sinh liên quan
đến hoạt động kinh doanh thường xuyên của các doanh nghiệp trong một thời kỳ
nhất định, chi phí kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm hai bộ phận là chi phí
sản xuất kinh doanh và chi phí hoạt động tài chính. Trong đó, chi phí hoạt động
sản xuất kinh doanh là các chi phí cho việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong
khi tiến hành sản xuất, các doanh nghiệp phải tiêu hao các loại vật tư như
nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hao mòn máy móc thiết bị, các công cụ, dụng
cụ, trả tiền lương, tiền công cho công nhân viên…Đó là những chi phí thường
xuyên phát sinh, gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại khác
nhau. Để thuận tiện cho công tác quản lý, hạch toán, kiểm tra chi phí cũng
như phục vụ cho việc ra các quyết định kinh doanh, chi phí sản xuất kinh
doanh cần phải được phân loại theo những tiêu thức phù hợp.
3
1.1.1. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất
1.1.1.1 Khái niệm, nội dung của chi phí sản xuất kinh doanh
Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của các loại vật tư
đã tiêu hao, chi phí hao mòn máy móc, thiết bị, tiền lương hay tiền công và các
khoản chi phí khác phát sinh trong quá trình sản xuất, bán hàng của doanh
nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải luôn luôn

tích hiệu quả sử dụng chi phí, hạch toán, kiểm tra, giúp doanh nghiệp tìm các
biện pháp tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm.
Thông thường có một số phương pháp chủ yếu để phân loại chi phí sau:
a) Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo nội dung kinh tế của
chi phí (theo yếu tố):
Cách phân loại này dựa vào hình thái kinh tế nguyên thuỷ của chi phí
phát sinh không tính đến công dụng, địa điểm phát sinh của chúng trong quá
trình sản xuất (dựa vào nội dung kinh tế ban đầu đồng nhất của khoản chi phí
đã chi ra). Các yếu tố thuộc về đối tượng lao động sẽ được tính là mua từ bên
ngoài. Dựa vào căn cứ trên, chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
được chia thành các yếu tố sau:
- Chi phí vật tư: là toàn bộ giá trị các loại vật tư mà doanh nghiệp mua
từ bên ngoài dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như
chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, chi phí phân bổ công cụ, phụ tùng thay
thế, dụng cụ lao động…
- Chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương: là toàn bộ các khoản
tiền lương, tiền công mà doanh nghiệp phải trả cho người lao động tham gia
vào hoạt động sản xuất kinh doanh; các khoản trích nộp theo tiền lương như
5
chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn mà doanh nghiệp
phải nộp trong kỳ.
- Chi phí khấu hao TSCĐ: phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích
trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong kỳ.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp phải trả
cho các dịch vụ đã sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ do các
đơn vị khác ở bên ngoài cung cấp như: Các khoản chi về tiền điện, tiền nước,
điện thoại, văn phòng phẩm, tiền thuê kiểm toán, tiền thuê dịch vụ pháp lý, tiền
mua bảo hiểm tài sản, bảo hiểm tai nạn con người, tiền thuê thiết kế, chi phí thuê
sửa chữa TSCĐ, chi hoa hồng đại lý, môi giới, chi xúc tiến thương mại…
- Chi phí bằng tiền khác: là các khoản chi phí ngoài các khoản đã nêu

gói, vận chuyển, bảo quản, chi phí khấu hao phương tiện vận tải, chi phí vật
liệu, bao bì, dụng cụ, đồ dùng, các chi phí dịch vụ mua ngoài, các chi phí
bằng tiền khác như chi phí bảo hành sản phẩm, chi phí quảng cáo…
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: gồm các chi phí quản lý kinh doanh, quản
lý hành chính và các chi phí chung khác có liên quan đến hoạt động của toàn
doanh nghiệp như: tiền lương và các khoản phụ cấp trả cho Hội đồng quản trị,
Ban giám đốc và các nhân viển quản lý ở các phòng ban, chi bảo hiểm, kinh phí
công đoàn của bộ máy quản lý doanh nghiệp, các khoản chi phí vật liệu, đồ dùng
văn phòng, khấu hao TSCĐ chung cho doanh nghiệp; các chi phí bằng tiền, dự
phòng nợ phải thu khó đòi, phí kiểm toán, chi phí tiếp đón, khánh tiết, công tác
phí, các khoản trợ cấp thôi việc cho người lao động; các khoản chi phí nghiên
cứu khoa học, nghiên cứu đổi mới công nghệ, chi thưởng sáng kiến, chi phí đào
tạo nâng cao tay nghề của công nhân, chi bảo vệ môi trường.
Cách phân loại chi phí này giúp cho doanh nghiệp có thể tập hợp chi
phí và tính giá thành cho từng loại sản phẩm; có thể quản lý chi phí tại các địa
7
điểm phát sinh chi phí, quản lý tốt chi phí, khai thác các khả năng nhằm hạ
giá thành sảm phẩm của doanh nghiệp.
c) Phân loại chi phí theo mối quan hệ giứa chi phí với quy mô sản
xuất kinh doanh:
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
được chia làm hai loại là chi phí cố định và chi phí biến đổi.
Chi phí cố định là chi phí không thay đổi (hoặc thay đổi không đáng
kể) theo sự thay đổi của sản lượng sản xuất, hay quy mô kinh doanh của
doanh nghiệp. Thuộc về loại chi phí này gồm có: Chi phí khấu hao TSCĐ, chi
phí về tiền lương trả cho cán bộ, nhân viên quản lý, các chi phí về thuê tài
sản, thuê văn phòng làm việc.
Chi phí biến đổi là các chi phí thay đổi theo sự thay đổi của sản lượng
sản xuất hay quy mô sản xuất.
Thuộc về loại chi phí này gồm các chi phí về vật tư, chi phí tiền lương công

chức, kỹ thuật. Thông qua tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, doanh
nghiệp có thể xem xét tình hình sản xuất và chi phí bỏ vào sản phẩm, phát
hiện và tìm ra các nguyên nhân dẫn đến phát sinh chi phí không hợp lý để có
biện pháp loại trừ.
- Giá thành còn là một căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xây dựng
chính sách giá cả cạnh tranh đối với từng sản phẩm được đưa ra tiêu thụ trên
thị trường.
Giá thành sản phẩm có thể phân loại theo các tiêu thức khác nhau:
a) Phân loại giá thành theo phạm vi tập hợp chi phí:
Trong phạm vi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có thể phân biệt giá thành
sản xuất và giá thành toàn bộ của các sản phẩm, dịch vụ đã tiêu thụ.
9
- Giá thành sản xuất bao gồm những khoản chi phí doanh nghiệp phải
bỏ ra để hoàn thiện việc sản xuất sản phẩm. Giá thành sản xuất sản phẩm
được tính theo công thức:
Giá thành sản
xuất sản phẩm
=
Chi phí vật tư
trực tiếp
+
Chi phí nhân
công trực tiếp
+
Chi phí sản xuất
chung
- Giá thành tiêu thụ (còn gọi là giá thành toàn bộ của sản phẩm) là toàn
bộ chi phí để hoàn thành việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Giá thành tiêu thụ
được tính theo công thức:
Giá thành toàn

được tính sau quá trình sản xuất, có sản phẩm hoàn thành ứng với kỳ tính giá
thành mà doanh nghiệp đã xác định. Đây là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh
kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc sử dụng các giải pháp tổ chức
kinh tế, kỹ thuật để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm. Giá thành sản xuất
thực tế là căn cứ để xác định kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp.
Cách phân loại này có tác dụng đánh giá tình hình thực hiện tiết kiệm
chi phí và tình hình thực hiện giá thành sản phẩm so với giá thành sản phẩm
kế hoạch để quản lý và giám sát chi phí, xác định được các nguyên nhân vượt
(hụt) định mức chi phí trong kỳ kế hoạch. Từ đó điều chỉnh kế hoạch hoặc
định mức cho phù hợp.
1.1.2.3 Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai khái niệm riêng biệt có
những mặt khác nhau:
Thứ nhất: Chi phí sản xuất luôn gắn liền với từng thời kỳ đã phát sinh
ra chúng, còn giá thành sản phẩm lại gắn liền với một khối lượng sản phẩm,
dịch vụ đã hoàn thành.
Thứ hai: Chi phí phát sinh trong doanh nghiệp được phân thành các
yếu tố chi phí, có cùng một nội dung kinh tế, chúng không nói rõ địa điểm và
mục đích bỏ ra chi phí. Còn những chi phí nào phát sinh nói rõ địa điểm và
mục đích bỏ ra chi phí đó thì chúng được tập hợp lại thành các khoản mục để
tính toán giá thành sản phẩm, dịch vụ.
Thứ ba: Chi phí sản xuất trong kỳ bao gồm cả những chi phí đã trả
trước của kỳ nhưng chưa phân bổ cho kỳ này và những chi phí phải trả kỳ
trước, nhưng kỳ này mới phát sinh thực tế, nhưng không bao gồm chi phí phải
11
trả kỳ này nhưng thực tế chưa phát sinh. Ngược lại giá thành sản phẩm lại chỉ
liên quan đến chi phí phải trả trong kỳ và chi phí trả trước được phân bổ trong
kỳ.
Thứ tư: Chi phí sản xuất trong kỳ không chỉ liên quan đến những sản

phí sản xuất kinh doanh, vì chi phí sản xuất kinh doanh có quan hệ chặt chẽ
với doanh thu và lợi nhuận. Nếu chi phí giảm sẽ làm lợi nhuận tăng và ngược
lại, nếu chi phí tăng không hợp lý sẽ làm cho lợi nhuận giảm sút.
Vì vậy, công tác quản lý tài chính doanh nghiệp cần chú trọng tới một
số vấn đề sau:
- Các doanh nghiệp cần phải lập kế hoạch chi phí hàng năm (lập bảng dự
toán chi phí theo yếu tố) đồng thời theo dõi, kiểm tra việc chấp hành đúng dự
toán chi phí đó.
- Tài chính doanh nghiệp cần quản lý chi phí theo định mức đã xây
dựng. Xây dựng định mức chi phí là việc xác định số tiền tối thiểu để hoàn
thành một đơn vị sản phẩm, dịch vụ hoặc công việc. Khi xây dựng các định
mức chi phí cần phải đảm bảo tôn trọng các yêu cầu cơ bản dưới đây:
+ Dựa vào tài liệu lịch sử, căn cứ vào tính chất của sản phẩm dịch vụ để
xem xét tình hình chi phí thực tế cả về hiện vật và giá trị liên quan đến đơn vị
sản phẩm, dịch vụ, công việc.
+ Phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh, yêu cầu quản lý của đơn vị
+ Đảm bảo tính khách quan, trung thực.
+ Xem xét các yếu tố ảnh hưởng của thị trường và các yếu tố khác tác
động đến việc xây dựng định mức chi phí trong kỳ.
Ngoài ra, hàng năm doanh nghiệp cần rà soát, xây dựng và bổ sung hệ
thống định mức lao động, tiền lương, định mức tiêu hao vật tư các loại, định
mức chi phí nhân công, chi phí vật tư mua ngoài… làm căn cứ quản lý và kiểm
13
tra xem xét trong kỳ doanh nghiệp thực hiện việc quản lý chi phí có chấp hành
tốt các định mức quản lý hay không. Việc xây dựng định mức chi tiêu trong
quản lý doanh nghiệp cần gắn liền với kết quả kinh doanh và có chứng từ hợp lệ.
Xây dựng các định mức chi phí sản xuất kinh doanh là công việc phức tạp
và khó khăn, đòi hỏi các nhà quản trị doanh nghiệp phải chú ý đến đặc điểm tổ
chức sản xuất kinh doanh, yêu cầu quản lý cụ thể, loại sản phẩm, dịch vụ, loại
vật liệu sử dụng cho từng loại sản phẩm, dịch vụ, địa điểm kinh doanh, nguồn

x Z
io
)]
Trong đó: M
Z
: Mức hạ giá thành sản phẩm hàng hoá so sánh được
Q
i1
: Số lượng sản phẩm thứ i được sản xuất ra năm nay
Z
i0
: Giá thành đơn vị sản phẩm thứ i kỳ báo cáo
Z
i1
: Giá thành đơn vị sản phẩm thứ i năm nay
i: Sản phẩm so sánh thứ i (i= 1,n)
Tỷ lệ hạ giá thành của sản phẩm hàng hoá so sánh được, phản ánh số tương
đối về chi phí sản xuất và tiêu thụ tiết kiệm được và xác định theo công thức:
T
Z
= x100

Trong đó: T
Z
: tỷ lệ hạ giá thành sản phẩm so sánh được
15
i =1
M
z
n

doanh nghiệp quyết định nhưng giá cả đó cũng phải phù hợp với quan hệ
cung cầu trên thị trường. Nếu giá thành sản phẩm hạ so với giá bán trên thị
trường thì phần chênh lệch giữa giá bán với giá thành trên mỗi đơn vị sản
phẩm tăng, làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp tăng thêm.
- Hạ giá thành sẽ giúp doanh nghiệp đẩy nhanh việc tiêu thụ sản phẩm.
Khi có sự cạnh tranh trên thị trường, hàng hoá đa dạng, phong phú về chủng
loại, các doanh nghiệp muốn tồn tại cần nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ
và tìm biện pháp giảm chi phí, hạ giá thành. Nhờ hạ giá thành mà doanh nghiệp
có thể giảm giá bán sản phẩm trên thị trường, khiến nhiều người tiêu dùng lựa
chọn sản phẩm của doanh nghiệp hơn do chất lượng tốt và giá cả phải chăng.
Việc tiêu thụ được đẩy mạnh giúp doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh, tăng nhanh
16
vòng quay vốn. Có thể nói hạ giá thành sản phẩm là nhân tố quan trọng tạo điều
kiện để doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Hạ giá thành có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thêm sản
xuất sản phẩm, dịch vụ. Do doanh nghiệp đã tiết kiệm được các chi phí
nguyên nhiên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí sản xuất chung, chi phí bán
hàng và chi phí quản lý nên với khối lượng sản xuất như cũ, nhu cầu vốn lưu
động được giảm bớt. Trong điều kiện đó, doanh nghiệp có thể rút bớt vốn lưu
động dùng trong sản xuất hoặc có thể sử dụng lượng vốn lưu động tiết kiệm
được để mở rộng sản xuất tăng thêm quy mô và khối lượng sản phẩm tiêu thụ.
1.3 Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến chi phí sản xuất kinh
doanh và hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp cao hay thấp
phụ thuộc và nhiều nhân tố. Song có thể chia thành 3 nhóm nhân tố chủ yếu:
1.3.1 Nhân tố về mặt kỹ thuật, công nghệ sản xuất
Trong điều kiện hiện nay, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học-
kỹ thuật và công nghệ sản xuất, các máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại
được sử dụng trong sản xuất ngày càng nhiều, tạo khả năng lớn cho việc tiết
kiệm hao phí lao động sống và lao động vật hoá trong quá trình sản xuất. Vì

của từng doanh nghiệp khó khăn hay thuận lợi cũng ảnh hưởng rất lớn đến
khả năng tiết kiệm chi phí và hạ giá thành.
Chẳng hạn đối với các doanh nghiệp khai thác, nguồn tài nguyên cũng
như điều kiện khai thác có ảnh hưởng quan trọng tới khả năng tiết kiệm chi
phí và hạ giá thành. Nguồn tài nguyên phong phú, điều kiện khai thác thuận
lợi thì chi phí khai thác sẽ thấp và ngược lại.
Các doanh nghiệp mới thành lập, chưa có kinh nghiệm kinh doanh, sản
xuất chưa ổn định… sẽ khó khăn hơn cho việc hạ giá thành. Hoặc trong điều
kiện sản xuất cạnh tranh, các doanh nghiệp phải chú trọng đầu tư nhiều hơn cho
18
đổi mới kỹ thuật, công nghệ sản xuất, đào tạo lao động, quảng cáo tiếp thị…Vì
vậy cũng có thể làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Tóm lại, có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến việc quản lý chi phí sản
xuất và hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Mỗi nhân tố có phạm vi và
mức độ tác động khác nhau, làm sao hạn chế ảnh hưởng tiêu cực, phát huy
tích cực nhằm có biện pháp tăng cường quản lý chi phí sản xuất và hạ giá
thành sản phẩm.
1.4 Biện pháp quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và hạ giá thành
sản phẩm trong doanh nghiệp
1.4.1 Vai trò của công tác quản trị tài chính doanh nghiệp trong việc
quản lý chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm
Quản trị tài chính doanh nghiệp là việc lựa chọn và đưa ra quyết định
tài chính, tổ chức thực hiện những quyết định đó nhằm đạt được mục tiêu hoạt
động tài chính doanh nghiệp, đó là tối đa hoá lợi nhuận, không ngừng làm
tăng giá trị doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trường.
Để tồn tại phát triển trong nền kinh tế thị trường thì các hoạt động của
doanh nghiệp phải được đặt trên cơ sở của công tác hoạch định cả về chiến
lược và chiến thuật. Xét trên góc độ tài chính, việc giám sát thường xuyên đi
sâu vào mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một biện

tài chính của doanh nghiệp. Trái lại nếu không có sự giám sát tài chính như
vậy sẽ dẫn đến tình trạng thất thoát vật tư, tiền vốn và chi phí vượt dự toán
nên doanh nghiệp dễ lâm vào khó khăn.
Muốn tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm phải tăng
cường công tác quản lý chi phí sản xuất phải lập được kế hoạch chi phí, kế
hoạch giá thành, dùng hình thức tiền tệ tính toán trước mọi chi phí cho sản
20
xuất kinh doanh kỳ kế hoạch, phải xây dựng được ý thức thường xuyên tiết
kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm … Để thực sự phát huy tác dụng đòi hỏi
phải thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa các phòng ban, giữa các bộ phận để
kiểm sát chặt chẽ chi phí. Điều đó được khởi đầu và thực hiện có hiệu quả hay
không là phụ thuộc không nhỏ vào sự năng động sáng tạo, khả năng quản lý
tài chính của các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp.
1.4.2 Một số biện pháp chủ yếu để quản lý chi phí sản xuất kinh
doanh và hạ giá thành sản phẩm
1.4.2.1 Lập kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Lập kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh là việc xác định toàn bộ mọi
khoản chi phí mà doanh nghiệp phải chi ra để sản xuất và tiêu thụ sản xuất kỳ
kế hoạch. Thông qua việc lập kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh , doanh
nghiệp có thể kiểm tra tình hình sử dụng chi phí, phát hiện khả năng tiết kiệm
chi phí để thúc đẩy đơn vị cải tiến kinh doanh tăng lợi nhuận, đáp ứng nhu cầu
tái sản xuất mở rộng và cải thiện đời sống công nhân viên của đơn vị. Trong quá
trình lập kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh òi hỏi người quản lý phải tính
đúng, tính đủ các chi phí sản xuất kinh doanh để xác định chỉ tiêu kế hoạch,
đồng thời theo dõi động viên các bộ phận trong doanh nghiệp thực hiện.
1.4.2.2 Quản lý và sử dụng lao động có hiệu quả để giảm chi phí tiền
lương, tiền công để hạ giá thành sản phẩm
Muốn giảm chi phí tiền lương và tiền công cần phải tăng nhanh năng
suất lao động. Để làm được như vậy cần phải tiến hành cải tiến tổ chức sản
xuất, tổ chức lao động đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ thuật và tay

1.4.2.5 Phát huy vai trò tài chính trong việc quản lý chi phí sản xuất
kinh doanh hạ giá thành sản phẩm
Thực hiện biện pháp này đòi hỏi doanh nghiệp phải tăng cường công
tác kiểm tra tài chính đối với từng khoản chi phí như:
22
Chi phí nguyên vật liệu: kiểm tra định mức tiêu hao nguyên vật liệu,
giá vật tư, tận dụng phế liệu thu hồi. Thông qua kiểm tra phát hiện sự tăng
giảm chi phí vật tư cho một đơn vị sản phẩm, đề xuất kịp thời biện pháp
thưởng phạt
Chi phí tiền lương: kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch lao động tiền
lương và tình hình thực hiện quỹ lương bằng việc kiểm tra định mức lao
động, tốc độ tăng tiền lương và tốc độ tăng năng suất lao động, hình thức trả
lương.
Chi phí quản lý phân xưởng, chi phí quản lý doanh nghiệp: kiểm tra các
khoản chi phí này thực tế phát sinh có phù hợp với dự toán được lập, cần kết
hợp với tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh chung của doanh
nghiệp, qua đó ngăn chặn kịp thời tình trạng chi phí quá mức cần thiết kém
hiệu quả. Mặt khác, tổ chức sư dụng vốn hợp lý, đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu
cầu vốn cho mua sắm vật tư tránh tổn thất cho sản xuất như phải ngừng sản
xuất vì thiếu vật tư, kiểm tra tình hình dự trữ vật tư, tồn kho sản phẩm, từ đó
đẩy mạnh tốc độ chu chuyển vốn, giảm bớt nhu cầu vay vốn làm giảm bớt chi
phí lãi vay.
Trên đây là một số biện pháp nhằm để quản lý tốt chi phí sản xuất kinh
doanh hạ giá thành sản phẩm. Thực tế, do đặc điểm khác nhau giữa các doanh
nghiệp trong nền kinh tế quốc dân nên mỗi doanh nghiệp cần phải căn cứ vào
những biện pháp chung đó để đưa ra cho doanh nghiệp mình phương hướng
biện pháp cụ thể có tính chất khả thi nhằm quản lý chi phí sản xuất kinh
doanh hạ giá thành sản phẩm.
23
CHƯƠNG II

số 403/NN/TCCB/QĐ tách bộ phận cung ứng vật tư, thuốc bảo vệ thực vật
trực thuộc Cục Bảo vệ thực vật để thành lập Công ty vật tư Bảo vệ thực vật
1 (tên giao dịch Pesticide Supply Company No.1 – PSC1). Công ty có trụ
sở chính đặt tại 189B Tây Sơn- Đống Đa – Hà Nội với tổng số vốn kinh
doanh ban đầu là 63 tỉ đồng:
Trong đó:
- Vốn cố định: 10 tỉ đồng.
- Vốn lưu động: 37 tỉ đồng.
- Vốn dự trữ Nhà nước: 16 tỉ đồng.
Đến năm 1993, Bộ NN&PTNT ban hành Quyết định số 08/NN/TCCB/
QĐ ngày 06/1/1993 chuyển công ty vật tư Bảo vệ thực vật 1 thành một doanh
nghiệp Nhà nước với giấy phép kinh doanh số 105835 ngày 06/02/1993 do
trọng tài kinh tế Thành phố Hà Nội cấp, công ty có trách nhiệm bán buôn, bán
lẻ tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng, vật tư nông nghiệp và công nghiệp hoá
chất, phân bón.
Sau hơn 10 năm phát triển, Công ty nhận thấy hình thức doanh nghiệp
nhà nước không còn phù hợp so với xu thế phát triển kinh tế của đất nước
hiện nay. Theo đánh giá sơ bộ, trên thị trường sản xuất kinh doanh vật tư,
thuốc bảo vệ thực vật hiện nay có khoảng hơn 300 doanh nghiệp tham gia
hoạt động so với con số 3 doanh nghiệp trong thời gian đầu những năm 90.
Điều này cho thấy sức ép cạnh tranh trên thị trường rất cao và có xu hướng
ngày càng phát triển. Trước làn sóng cổ phần hoá DNNN đang diễn ra mạnh
mẽ, để giúp cho nền nông nghiệp nước ta phát triển mạnh mẽ hơn, đủ sức
cạnh tranh trên thị trường đặc biệt khi Việt Nam gia nhập WTO, Bộ
NN&PTNT có quyết định số 3112/QĐ/BNN/ĐMDN ngày 10/11/2005 và quyết
25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status