Tài liệu Báo cáo thực tập “Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế vùng Đồng Bằng Sông Hồng” - Pdf 97


Báo cáo tốt nghiệpĐề tài: “Thực trạng và một số giải pháp
chủ yếu nhằm phát triển kinh tế vùng
Đồng Bằng Sông Hồng”

1
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1. Khái niệm vùng 7
1.2. Vùng kinh tế 8
1.3. Cở sở lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế 9
1.3.1. Các quan niệm, khái niệm tăng trưởng kinh tế 9
1.3.2. Phát triển kinh tế 18
1.3.3. Phát triển bền vững 23
THỰC TRẠNG KINH TẾ VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
2.1. Những hạn chế khó khăn của vùng ĐBSH 27
2.1.1. Đất chật, người đông, chất lượng lao động chưa cao, và có sức ép giải quyết
việc làm lớn 27
2.1.2. Kết cấu hạ tầng (nhất là giao thông, điện) chưa tạo đủ điều kiện để phát triển
nhanh và hiệu quả cao 28
2.1.3. Cơ cấu ngành nghề chưa hiện đại, trình độ công nghệ còn thấp, hiệu suất phát
triển chưa cao dẫn đến khả năng cạnh tranh thấp 30
2.1.4. Tổ chức lãnh thổ đã có bước phát triển nhưng còn tồn tại nhiều bất hợp lý 32
2.1.5. Tâm lý phát triển chưa hình thành rõ nét và phát huy tác dụng 34
2.1.6. Sự cạnh tranh của hàng hóa Trung Quốc 34
2.2. Tiềm năng và lợi thế của vùng ĐBSH 35
2.2.1. Vùng ĐBSH có thực lực và trình độ phát triển khá hơn so với nhiều vùng trong

đầu não chính trị của nhà nước, cơ quan điều hành của các Tổ chức kinh
tế lớn và các cơ sở đào tạo, nghiên cứu và triển khai của quốc gia. Có thể
nói vùng ĐBSH có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã
hội nhất cả nước. Tuy nhiên thực tế cho thấy tình hình kinh tế - xã hội
của vùng lại thua xa vùng Đông Nam Bộ. Tuy nhiên do năng lực cũng
như trình độ lý luận của bản thân còn thấp nên em chỉ nghiên cứu và
phân tích tình hình kinh tế của vùng ĐBSH nhằm đưa ra giải pháp để
phát triển kinh tế của vùng.
Xuất phát từ thực tế nêu trên nên khi đi thực tập tốt nghiệp em đã
chọn đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh
tế vùng Đồng Bằng Sông Hồng”
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
- Đánh giá thực trạng kinh tế vùng ĐBSH
- Đưa ra được một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế vùng
Đồng bằng sông Hồng
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài này nghiên cứu các vấn đề tiềm năng, hạn chế, đánh giá thực
trạng kinh tế của vùng Đồng bằng sông Hồng

3

Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi không gian
Đề tài được tiến hành trên vùng Đồng bằng sông Hồng
- Phạm vi thời gian
Đề tài sử dụng các số liệu từ năm 2005 đến 2008
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
4.1. Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

-Chương I: Lý luận chung về phát triển kinh tế
-Chương II: Thực trạng kinh tế vùng Đồng bằng sông Hồng
-Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế vùng
Đồng bằng sông Hồng

6
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1. Khái niệm vùng
Cho đến nay có rất nhiều khái niệm về vùng nhưng đều có thể coi: vùng
như là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia, có một sắc thái dặc thù nào đó, hoạt
động như một hệ thống do có mối quan hệ tương đối chặt chẽ giữa các thành
phần cấu tạo nên nó (cụ thể như các luồng trao đổi vật chất, năng lượng, thông
tin…) cũng như mối quan hệ có chọn lọc với không gian các cấp bên ngoài.
Các thuộc tính cơ bản của vùng:
- Là một phần của bề mặt trái đất, hơn nữa chiếm không gian nhất định
(không gian ba chiều). Một số không gian này là không gian tụ nhiên, không
gian kinh tế, không gian xã hội,…
- Có phạm vi giới tuyến nhất định: phạm vi có lớn nhỏ là căn cứ vào
các yêu cầu khác nhau, hệ thống chỉ tiêu khác nhau để chia; giới tuyến của
vùng thường có đặc trưng mang tính quá độ, là một “dải đất” từ biến lượng tới
biến chất.
- Có hình thức kết cấu hệ thống nhất định: tính phân cấp hoặc tính
nhiều cấp, tính phân tầng. Do vậy vùng có mội quan hệ trên với dưới, phải với
trái, mỗi vùng nhỏ là một phần hợp thành của một vùng lớn.
- Vùng là một tồn tại khách quan: là cái mà để căn cứ vào đó theo yêu
cầu và đối tượng khác nhau để phân chia, là sự phản ánh chủ quan nhận thức
của con người đối với thế giới khách quan.
- Tính đồng nhất tương đối: thể hiện trong các đặc điểm tự nhiên và
các đặc điểm lịch sử. Các đặc điểm sau này được bảo tồn thông qua những gia

phát triển tổng hợp (bao gồm các ngành phục vụ, hỗ trợ cho chuyên môn hóa,
cấu trúc hạ tầng). Cơ cấu lãnh thổ của vùng đó là những mối quan hệ giữa hạt
nhân với lớp vỏ trong và lớp vỏ ngoài. Đó là quan hệ giữa trung tâm vùng với
các vùng ngoại vi và ranh giới vùng, sức hút của trung tâm tới đâu thì ranh giới

8
vùng tới đó.
Vùng kinh tế hình thành và phát triển dưới sự chi phối của các yếu tố tạo
vùng khách quan; vùng là một phạm trù lịch sử.
1.3. Cở sở lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế
1.3.1. Các quan niệm, khái niệm tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là một phạm trù kinh tế, nó phản ánh quy mô tăng
lên hay giảm đi của nền kinh tế ở năm này so với năm trước đó hoặc của thời
kỳ này so với thời kỳ trước đó. Tăng trưởng kinh tế có thể biểu hiện bằng qui
mô tăng trưởng và tốc độ tăng trưởng. Qui mô tăng trưởng phản ánh sự gia
tăng lên hay giảm đi nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý
nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm của nền kinh
tế giữa năm hay các thời kỳ. Để đo lường tăng trưởng kinh tế người ta thường
dùng hai chỉ số chủ yếu: phần tăng, giảm quy mô của nền kinh tế (tính theo
GDP), hoặc tốc độ tăng trưởng kinh tế (tính theo GDP).
Ngày nay, tăng trưởng kinh tế được gắn với chất lượng tăng trưởng. Mặt
số lượng của tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở qui mô, tốc độ của tăng trưởng.
Còn mặt chất lượng của tăng trưởng kinh tế là tính qui định vốn có của nó, là sự
thống nhất hữu cơ làm cho hiện tượng tăng trưởng kinh tế khác với các hiện
tượng khác. Chất lượng tăng trưởng được qui định bởi các yếu tố cấu thành và
phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành nên tăng trưởng kinh tế.
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới, Chương trình phát triển của Liên hợp
quốc và một số nhà kinh tế học nổi tiếng được giải thưởng Nobel gần đây như
G.Becker, R.Lucas, Amrtya Sen, J.Stiglitz, thì cùng với quá trình tăng trưởng,

- Học thuyết về “Bàn tay vô hình”, theo ông nếu không bị chính phủ
kiểm soát, người lao động sẽ được lợi nhuận thúc đẩy để sản xuất ra dịch vụ và
hàng hóa cần thiết và thông qua thị trường tự do này, lợi ích cá nhân sẽ gắn liền
với lợi ích xã hội. Từ đó ông cho rằng Chính phủ không có vai trò thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.

10
- Lý thuyết về phân phối thu nhập theo nguyên tắc “Ai có gì được nấy”,
theo nguyên tắc này, tư bản có vốn thì được lợi nhuận, địa chủ có đất đai thì
thu được địa tô, công nhân có sức lao động thì nhận được tiền công.
Theo Adam Smith, chính lao động được sử dụng trong những công việc
có ích và hiệu quả là nguồn gốc tạo ra giá trị cho xã hội. Số công nhân “hữu ích
và hiệu quả” cũng như năng suất của họ phụ thuộc vào lượng tư bản tích luỹ.
Adam Smith coi sự gia tăng tư bản là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế.
Nếu Adam Smith được coi là người sáng lập ra Kinh tế học thì David
Ricardo (1772-1823) được coi là tác giả cổ điển xuất sắc nhất. Ông kế thừa các
tư tưởng của Adam Smith, và chịu ảnh hưởng tư tưởng về dân số học của T.R
Malthus (1776-1834). Những quan điểm cơ bản của David Ricardo về tăng
trưởng kinh tế được thể hiện như sau: Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng
nhất, các yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao động và vốn,
trong từng ngành và phù hợp với một trình độ kỹ thuật nhất định, các yếu tố
này kết hợp với nhau theo một tỷ lệ cố định, không thay đổi.
David Ricardo cho rằng trong nông nghiệp, năng suất cận biên của đất
đai, tư bản, lao động đều giảm dần. Theo Ricardo, bất cứ biện pháp nào có thể
thúc đẩy việc nâng cao năng suất cận biên như: cải tạo nông nghiệp, áp dụng
máy móc, nhập ngũ cốc giá rẻ, giảm thuế và chi tiêu công cộng, đều làm tăng
lợi nhuận, từ đó tăng tỷ lệ hình thành tư bản, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy
xuất phát từ góc độ phân phối thu nhập để nghiên cứu tăng trưởng kinh tế,
nhưng ông vẫn đặc biệt nhấn mạnh tích luỹ tư bản là nhân tố chủ yếu quyết
định sự tăng trưởng kinh tế còn các chính sách của Chính phủ không có tác

“Các nguyên lý của kinh tế học”, xuất bản năm 1890, do đó thời điểm này
được coi như mốc đánh dấu sự ra đời của trường phái tân cổ điển.
Các nhà kinh tế tân cổ điển bác bỏ quan điểm cổ điển cho rằng sản xuất
trong một tình trạng nhất định đòi hỏi những tỷ lệ nhất định về lao động và
vốn, họ cho rằng vốn và lao động có thể thay thế cho nhau, và trong quá trình
sản xuất có thể có nhiều cách kết hợp giữa các yếu tố đầu vào. Đồng thời họ
cho rằng tiến bộ khoa học kỹ thuật là yếu tố cơ bản để thúc đẩy sự phát triển

12
kinh tế. Do chú trọng đến các nhân tố đầu vào của sản xuất, lý thuyết tân cổ
điển còn được gọi là lý thuyết trọng cung.
Điểm giống với các nhà kinh tế cổ điển, các nhà kinh tế tân cổ điển cho
rằng trong điều kiện thị trường cạnh tranh, khi nền kinh tế có biến động thì sự
linh hoạt về giá cả và tiền công là nhân tố cơ bản khôi phục nền kinh tế về vị trí
sản lượng tiềm năng với việc sử dụng hết nguồn lao động. Họ cũng cho rằng
Chính phủ không có vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế.
 Quan điểm của Keynes về tăng trưởng kinh tế:
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp
đã diễn ra thường xuyên, nghiêm trọng. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
1929-1933 đã chứng tỏ rằng học thuyết “Tự điều tiết” nền kinh tế của các
trường phái cổ điển và tân cổ điển là thiếu xác thực, lý thuyết về “Bàn tay vô
hình” của A.Smith tỏ ra kém hiệu quả. Điều này đòi hỏi các nhà kinh tế phải
đưa ra các học thuyết mới phù hợp hơn. Năm 1936, sự ra đời của tác phẩm “Lý
thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của John Maynard Keynes (1883-
1946) đánh dấu sự ra đời của học thuyết kinh tế mới.
Keynes cho rằng có hai đường tổng cung: đường tổng cung dài hạn AS-
LR phản ánh mức sản lượng tiềm năng, và đường tổng cung ngắn hạn AS-SR
phản ánh khả năng thực tế. Cân bằng của nền kinh tế không nhất thiết ở mức
sản lượng tiềm năng, mà thường cân bằng dưới mức sản lượng tiềm năng.
Keynes cũng đánh giá cao vai trò của tiêu dùng trong việc xác định sản lượng.

nghiệp. Nhà nước cần xác định tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và mức lạm phát có
thể chấp nhận được. Sự cân bằng này của nền kinh tế được xác định tại giao
điểm của tổng cung và tổng cầu.
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại thống nhất với cách xác định của
mô hình kinh tế tân cổ điển về các yếu tố tác động đến sản xuất. Họ cho rằng
tổng mức cung (Y) của nền kinh tế được xác định bởi các yếu tố đầu vào của
sản xuất: lao động (L), vốn sản xuất (K), tài nguyên thiên nhiên được sử dụng
(R), khoa học công nghệ (A). Nói cách khác hàm sản xuất có dạng:
Y= F (L,K,R,A ) (1.1)

14
Lý thuyết trên chọn hàm sản xuất dạng Cobb-Douglas để thể hiện tác động của
các yếu tố đến tăng trưởng kinh tế:
(1.2)
(1.3)
Trong đó: g là tốc độ tăng trưởng GDP
k, l, r là tốc độ tăng trưởng các yếu tố đầu vào.
a là phần dư còn lại, phản ánh tác động của khoa học công nghệ.
Để tăng trưởng sản xuất, các nhà sản xuất có thể lựa chọn công nghệ sử
dụng nhiều vốn, hoặc công nghệ sử dụng nhiều lao động. Samuelson cho rằng
một trong những đặc trưng quan trọng của kinh tế hiện đại là “kỹ thuật công
nghiệp tiên tiến hiện đại dựa vào việc sử dụng vốn lớn”. Do đó vốn là cơ sở để
phát huy tác dụng của các yếu tố khác: vốn là cơ sở để tạo ra việc làm, để có
công nghệ tiên tiến. Vì vậy trong phân tích và dự báo kinh tế ngày nay hệ số
ICOR được coi là cơ sở để xác định tỷ lệ đầu tư cần thiết phù hợp với tốc độ
tăng trưởng kinh tế.
và (1.4)
Trong đó: k - hệ số ICOR (tỷ lệ gia tăng vốn và đầu ra).
tương ứng là mức gia tăng vốn và mức gia tăng đầu ra.
s: là tỷ lệ tiết kiệm.

Theo giáo sư Đặng Hữu (2004), nền kinh tế tri thức có 10 đặc trưng chủ
yếu sau:
- Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Theo ông trong 15 năm qua các ngành
kinh tế dựa vào tri thức đang phát triển nhanh; các ý tưởng đổi mới và công
nghệ là chìa khoá cho việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc
sống.

16
- Sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiên
tiến nhất, tiêu biểu nhất của nền sản xuất tương lai. Các ngành kinh tế tri thức
đều phải dựa vào công nghệ mới để phát triển.
- Việc ứng dụng thông tin rộng rãi trong mọi lĩnh vực và thiết lập mạng
thông tin đa phương tiện phủ khắp đất nước. Mọi lĩnh vực hoạt động trong xã
hội đều có tác động của công nghệ thông tin để nâng cao năng suất, chất lượng
và hiệu quả.
- Các doanh nghiệp vừa cạnh tranh vừa hợp tác để phát triển.
- Xã hội thông tin thúc đẩy sự dân chủ hóa.
- Xã hội thông tin là một xã hội học tập.
- Vốn quí nhất của nền kinh tế tri thức là tri thức.
- Sự sáng tạo, đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu thúc đẩy sự
phát triển.
- Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hóa.
- Sự thách thức đối với văn hoá. Trong nền kinh tế tri thức – xã hội
thông tin, văn hoá có điều kiện phát triển nhanh và văn hoá là động lực thúc
đẩy kinh tế xã hội.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), có bốn trụ cột của nền kinh tế tri thức,
hay bốn tiên đề cốt yếu để một nước có thể tham gia vào nền kinh tế tri thức,
đó là:
− Giáo dục và đào tạo theo tiêu chuẩn cao.
− Cơ sở hạ tầng thông tin năng động, hữu hiệu, thuận lợi cho việc truyền

tai, dịch bệnh, chiến tranh, khủng bố… Từ đó đòi hỏi sự phát triển của mỗi
quốc gia, lãnh thổ và cả thế giới phải được nâng lên tầm cao mới cả về chiều
rộng và chiều sâu của sự hợp tác, phát triển. Thực tiễn đó đã thúc đẩy sự ra đời
một khái niệm mới về phát triển mang nội hàm phản ánh tổng hợp hơn, toàn
diện hơn tất cả các khái niệm về tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế…, đó là
khái niệm phát triển bền vững.

18
 Lý thuyết Linear- Stages:
Ý tưởng về các giai đoạn phát triển khác nhau xuất hiện từ thế kỷ 18.
Adam Smith lần đầu tiên cho rằng tất cả các xã hội đều trải qua 4 giai đoạn, cụ
thể là săn bắn, hái lượm, sản xuất nông nghiệp, sản xuất hàng hoá. Theo Karl
Marx, tất cả các xã hội đều phải trải qua, đó là chế độ phong kiến, chủ nghĩa tư
bản, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Mô hình tăng trưởng về phát triển
của Walt W. Rostow là một điểm cộng thêm thuộc ý tưởng này.
Trong đầu những năm 1950, khi thế giới đang khôi phục lại từ sự tàn phá
của Thế Chiến Hai và hầu hết những nước là thuộc địa của các nước phát triển
đều được độc lập, có một nhu cầu lớn về các chính sách phát triển đối với các
nước mới độc lập này. Để chống lại đe doạ lan rộng từ chế độ cộng sản, các
nước tư bản phát triển cố gắng đưa ra các đề xuất chính sách cứng rắn đối với
các nước mới độc lập, các đề xuất này nhằm đưa các nước kém phát triển đi
theo chiều hướng phát triển. Thành công của Kế hoạch Marshall của Mỹ nhằm
giúp các nước mới thành lập ở các nước Tây Âu là thực tế và kinh nghiệm lịch
sử của nước phát triển trong việc chuyển đổi các xã hội nông nghiệp sang các
nước công nghiệp hiện đại có thể có những bài học quan trọng cho các nước
đang phát triển, dẫn đến việc hình thành các lý thuyết giai đoạn của Rostow.
Theo Rostow, việc chuyển đổi từ kém phát triển đến phát triển có thể được
nhận thấy trong hàng loạt các bước hay giai đoạn thông qua đó tất cả các nước
phải đi đến. Ông miêu tả ba giai đoạn này là:
- Xã hội truyền thống: Giai đoạn này là giai đoạn đầu tiên của sự phát

k tỷ lệ vốn-sản lượng
Vì thế vế bên trái của biểu thức này là tỷ lệ gia tăng của thu nhập quốc dân. Với
một k luôn ổn định và vì thế tỷ lệ gia tăng thu nhập quốc dân tương ứng với tỷ
suất tiết kiệm của nền kinh tế. Ví dụ, nếu tỷ lệ vốn-sản lượng là 3, khi đó tỷ lệ
tăng trưởng là 5%, tỷ suất tiết kiệm sẽ là 15%. Nếu như tỷ suất tiết kiệm chỉ là

20
5%, khi đó 10% kia có thể vay mượn nước ngoài hay từ viện trợ nước ngoài.
Đây là một luận cứ cơ bản đằng sau kế hoạch Marshall và kế hoạch này đã rất
thành công.
Chỉ trích về mô hình Các giai đoạn:Mô hình các giai đoạn đã quá đề cao
tiết kiệm. Tuy tiết kiệm và đầu tư là các điều kiện cần cho sự phát triển nhưng
chúng không được coi là điều kiện duy nhất.
Các mô hình thay đổi cơ cấu:Các mô hình thay đổi cơ cấu nhấn mạnh
đến nhu cầu của một sự thay đổi về cơ cấu trong xã hội. Các mô hình này
không mâu thuẫn với ý tưởng của mô hình các giai đoạn nhưng chúng triển
khai các mô hình chức năng phức tạp để chỉ ra các thay đổi về cơ cấu trong xã
hội có thể đưa nền kinh tế hướng tới con đường phát triển bền vững như thế
nào. Với tiêu đề này chúng ta sẽ chỉ tìm hiểu mô hình của Arthur Lewis. Mô
hình này có tên: "Phát triển kinh tế với các nguồn cung lao động vô hạn"
Cuộc cách mạng Phụ thuộc-Quốc tế: Khi lý thuyết phát triển hiện thời
không mang lại bất cứ thay đổi nào trong cuộc sống của người dân ở các nước
đang phát triển, thì sự bất bình gia tăng giữa các nhà kinh tế ở các nước đang
phát triển đã dẫn đến sự xuất hiện của các lý thuyết phát triển khác. Các lý
thuyết này trở nên phổ biến đối với các nhà kinh tế ở các nước đang phát triển
trong những năm 1970, dần được biết đến như “Cuộc cách mạng Phụ thuộc-
Quốc tế”. Ý tưởng cơ bản đằng sau Cuộc cách mạng Phụ thuộc-Quốc tế là các
nước thế giới thứ ba bị dàn xếp trong một mối quan hệ phụ thuộc và thống trị
với các nước giàu, và các nước giàu vô tình hay cố ý góp phần vào việc duy trì
quan hệ này và hiện trạng đó được duy trì. Các ý tưởng đã triển khai dưới tiêu

quả cuối cùng nào.
 Luận điểm Phát triển-Kép:
Đây là sự mở rộng của khái niệm về thuyết nhị nguyên được bàn đến
rộng rãi ở các nền kinh tế phát triển. Bằng các từ ngữ đơn giản nó thể hiện mối
quan hệ giữa các nước giàu và nước nghèo chỉ là một cái nhìn toàn cầu về
thuyết nhị nguyên mà chúng ta thấy trong tất cả các khía cạnh của cuộc sống.

22
Sự nối kết giữa các nhân tố siêu cường và tiểu cường, là các nhân tố siêu cường
hơn tuy ít hay không có tác dụng lôi lên các nhân tố tiểu cường hơn. Đôi khi
trong thực tế, nó có thể thực sự dìm xuống (TQ hiệu đính: TQ gọi đây là lý
thuyết "an phận". Nghĩa là trong đời sống, có người giàu thì có người nghèo, có
người tốt thì có người xấu, cho nên có nước giàu thì phải có nước nghèo.
Nhưng lý thuyết "an phận" này vi phạm ngụy biện "trắng đen". Thế giới này
đâu chỉ đơn giản giữa giàu nghèo, tốt xấu, siêu cường và tiểu cường.)
1.3.3. Phát triển bền vững
Khái niệm “phát triển bền vững” xuất hiện trong phong trào bảo vệ môi
trường từ những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ 20. Năm 1987, trong Báo
cáo “Tương lai chung của chúng ta” của Hội đồng Thế giới về Môi trường và
Phát triển (WCED) của Liên hợp quốc, “phát triển bền vững” được định nghĩa
“là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây
trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”.
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio
de Janeiro (Braxin) năm 1992 và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển
bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002 đã xác định
“phát triển bền vững” là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và
hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nền tảng là tăng
trưởng kinh tế), phát triển xã hội (mục tiêu là thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội; xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (mục
tiêu là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường;

thức sâu sắc về tầm quan trọng của sự phát triển bền vững không chỉ riêng với
Việt Nam mà còn có liên đới trách nhiệm với sự phát triển bền vững chung của
toàn cầu. Chính phủ ta đã cử nhiều đoàn cấp cao tham gia các Hội nghị nói trên
và cam kết thực hiện phát triển bền vững; đã ban hành và tích cực thực hiện
“Kế hoạch quốc gia về Môi trường và Phát triển bền vững giai đoạn 1991-
2000″ (Quyết định số 187-CT ngày 12 tháng 6 năm 1991), tạo tiền đề cho quá
trình phát triển bền vững ở Việt Nam. Quan điểm phát triển bền vững đã được
khẳng định trong Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ

24
Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó nhấn mạnh: “Bảo vệ môi trường là một nội
dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát
triển kinh tế – xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm
phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”. Quan điểm phát triển bền vững đã được tái khẳng định trong các văn kiện
của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam
và trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010 là: “Phát triển nhanh,
hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội và bảo vệ môi trường” và “Phát triển kinh tế – xã hội gắn chặt với bảo vệ
và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi
trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. Gần đây, Đại hội X (2006) của
Đảng cũng đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn từ thực tiễn phát triển hơn 20
năm đổi mới vừa qua và đó cũng là tư tưởng chỉ đạo về phát triển kinh tế – xã
hội nước ta giai đoạn 5 năm 2006-2010 và kể cả nhiều năm tiếp theo. Trong đó,
bài học đầu tiên đã được Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh là “Bài học về phát triển
nhanh và bền vững”. Phát triển bền vững rõ ràng đã và đang trở thành đường lối,
quan điểm của Đảng và định hướng chính sách phát triển của Nhà nước. Để thực
hiện mục tiêu phát triển bền vững, những năm vừa qua đã có nhiều chỉ thị, nghị
quyết khác của Đảng, nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã được


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status