Tài liệu Báo cáo tốt nghiệp: "Vấn đề cơ bản để phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam " - Pdf 98

TRƯỜNG
KHOA…………
………… o0o…………

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
V n c b n phát tri n th ng m i i n t Vi t Nam ấ đề ơ ả để ể ươ ạ đ ệ ử ở ệ
MỤC LỤC
Trang
I/ PHẦN MỞ ĐẦU 2
1
II/ PHẦN NỘI DUNG 3
1/ HẠ TẦNG CƠ SỞ PHÁP LÝ 3
1.1/ Một số vấn đề pháp lý trong thương mại điện tử 3
1.2. Khuôn khổ pháp lý cho thương mại điện tử ở việt Nam 7
2/ HẠ TẦNG CƠ SỞ CÔNG NGHỆ 10
3/ HẠ TẦNG CƠ SỞ NHÂN LỰC 11
4/ HẠ TẦNG THANH TOÁN TỰ ĐỘNG( THANH TOÁN ĐIỆN TỬ ) 13
5/ BẢO MẬT, AN TOÀN 16
6/ BẢO VỆ SỞ HỮU TRÍ TUỆ 23
7/ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG 24
2
I/ PHẦN MỞ ĐẦU
Vào cuối thế kỷ XX, sự phát triển và hoàn thiện của kỹ thuật số đã được áp dụng trước
hết vào máy tính điện tử, tiếp đó sang các lĩnh vực khác (điện thoại di động, thẻ tín dụng ).
Số hoá và mạng hoá đã là tiền đề cho sự ra đời của nền kinh tế mới - nền kinh tế số (còn gọi
là nền kinh tế tri thức, nền kinh tế dựa trên tri thức, ). Việc mua bán hàng hóa và dịch vụ
thông qua các phương tiện điện tử, Internet và các mạng viễn thông khác đã xuất hiện, đó
chính là “Thương mại điện tử” (TMĐT).
Thương mại Điện tử là toàn bộ chu trình và các hoạt động kinh doanh liên quan đến
các tổ chức hay cá nhân tiến hành hoạt động thương mại có sử dụng các phương tiện điện tử

là hoàn toàn khác.
1.1.1 Vấn đề pháp lý trong đảm bảo an toàn và độ tin cậy cho các giao dịch TMĐT.
An toàn và tin cậy là các yếu tố mà người tham gia TMĐT phải cân nhắc trước khi
quyết định tham gia. Nếu người sử dụng cảm thấy thông tin về giao dịch của họ không được
đảm bảo an toàn, có thể bị sửa đổi, có thể bị khám phá trái phép họ sẽ không tham gia
TMĐT. Do đó, cần phải có hạ tầng viễn thông an toàn, trên đó có các phương tiện để bảo vệ
thông tin, tránh khám phá, sử dụng trái phép và một hành lang pháp lý đầy đủ phân định rõ
ràng trách nhiệm của các chủ thể tham gia TMĐT ở tất cả các công đoạn của giao dịch
thương mại mà tính an toàn, độ tin cậy bị đe doạ như máy trạm, máy chủ, đường truyền. Mặt
khác người sử dụng cũng phải học cách tự bảo vệ mình bằng các biện pháp kỹ thuật.
Mã hoá là một công cụ hữu hiệu đảm bảo an toàn cho các giao dịch trong TMĐT. Nó
cho phép người sử dụng bảo vệ được thông tin của mình một cách an toàn, đảm bảo nguồn
gốc thông tin và tính toàn vẹn của thông tin. Tuy nhiên khi sử dụng mã hoá có thể xảy ra
trường hợp như bọn tội phạm có thể sử dụng biện pháp mã hoá để mã hoá các thông tin.
4
Đồng thời, mã hoá nhiều khi cũng gây khó khăn cho Giám đốc doanh nghiệp kiểm soát hoạt
động của cán bộ dưới quyền.
1.1.2. Vấn đề bảo đảm tính riêng tư:
Thông tin cá nhân được luật pháp tôn trọng. Cá nhân được quyền đảm bảo bí mật các
thông tin về đời tư. Khi thực hiện các giao dịch trong môi trường Internet, các chủ thể tham
gia giao dịch thường được yêu cầu phải khai báo các thông tin cá nhân ví dụ như số thẻ tín
dụng, địa chỉ, ngày tháng năm sinh, địa chỉ nhà riêng, số điện thoại cá nhân để phục vụ cho
mục đích xác nhận, kiểm tra. Sở dĩ có điều đó là do các bên tham gia giao dịch không quen
biết nhau. Các thông tin về đời tư này dễ bị bên thứ ba lấy cắp và sử dụng vào mục đích khác,
gây phương hại đến người tham gia giao dịch TMĐT. Do đó, trong TMĐT cần quy định rõ
trách nhiệm pháp lý của các bên tham gia giao dịch đối với các thông tin của các chủ thể.
1.1.3. Bảo vệ người tiêu dùng:
Do trong TMĐT cả người mua lẫn người bán không cần gặp nhau, biết nhau nên dễ
xảy ra các rủi ro và người bị thiệt thường là người tiêu dùng bởi vì họ phải trả tiền trước cho
các sản phẩm, dịch vụ mà họ mua qua mạng song lại chưa biết được chất lượng sản phẩm và

bản trên giấy, các giao dịch TMĐT khi cần phải có chữ ký để ràng buộc chủ thể với nội dung
tài liệu. Chữ ký điện tử sẽ được sử dụng trong những trường hợp như vậy. UNCITRAL đã
nêu luật khung về chữ ký điện tử để các nước tham chiếu khi xây dựng luật của mình.
Đảm bảo tính nguyên vẹn (bản gốc) của tài liệu trong TMĐT là một nhu cầu. Đối với
những tài liệu về quyền sở hữu hay giấy tờ có giá (như vận đơn) khi quyền đi liền với việc
chiếm hữu tài sản đó, thì điều cơ bản là đảm bảo rằng bản gốc phải ở trong tay người có
quyền sở hữu tài sản mà giấy tờ thể hiện. Trong TMĐT con người có thể tạo được các bản
sao giống hệt như bản gốc một cách dễ dàng. Điều quan trọng là tập dữ liệu do một người
6
khởi tạo không bị thay đổi về nội dung, hay nói cách khác là đảm bảo sự nguyên vẹn của dữ
liệu.
1.1.6. Thời điểm, địa điểm gửi, nhận thông điệp điện tử
Thời gian giao kết rất quan trọng để xác định thời điểm bắt đầu nghĩa vụ của các bên.
Do các bên trong TMĐT không quen biết nhau, ở xa nhau, liên lạc với nhau qua mạng nên
xác định thời điểm giao kết thương mại là khó khăn và các bên rất dễ hiểu khác nhau về thời
điểm giao dịch. Điều đó dễ dẫn đến các tranh chấp.
Người được chào hàng có thể chấp nhận lời chào hàng và theo đó tạo ra một hợp đồng
trực tiếp. Sự phản hồi của khách hàng chấp nhận đơn chào hàng là sự trả giá. Trường hợp này
người mua là người trả giá, người bán là người chấp nhận hợp đồng. Việc xác lập hợp đồng
không nhất thiết phải do con người thực hiện, mà có thể chấp nhận tự động bằng hệ thống
máy móc. Ví dụ, khi người chủ đặt máy bán nước giải khát tự động, được coi là chấp nhận trả
giá khi khách bỏ tiền vào máy. Khi tiến hành TMĐT, người chào hàng có thể quy định thời
gian gửi ý kiến chấp nhận, khi đó thời điểm chấp nhận hợp đồng là thời điểm thông tin chấp
nhận của khách hàng nhập vào hệ thống của người chào hàng.
Thời gian nhận được thông điệp điện tử được xác định theo nguyên tắc sau:
a/ Nếu người nhận chỉ định một hệ thống thông tin để nhận thì thời gian nhận là khi
thông điệp điện tử nhập vào hệ thống thông tin đó hoặc khi nhập vào hệ thống thông tin khác
nhưng người nhận đang làm việc để truy lục thông điệp điện tử.
b/ Nếu người nhận không chỉ định hệ thống thông tin thì tính thời điểm nhận là thời
điểm thông điệp điện tử truy nhập vào hệ thống thông tin của người nhận.

Tại khoản 1, điều 124 “Hình thức giao dịch dân sự” của Bộ luật dân sự (Quốc hội khoá
XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/01/2006) quy định
“Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi
là giao dịch bằng văn bản”. Bộ luật Dân sự đưa ra quy định cụ thể về các trường hợp giao kết,
sửa đổi, thực hiện, huỷ bỏ hợp đồng. Theo đó, thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên
đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết. Địa điểm giao kết hợp đồng dân sự do các bên
thoả thuận, nếu không có thoả thuận thì địa điểm giao kết hợp đồng dân sự là nơi cư trú của
cá nhân hoặc trụ sở của pháp nhân đã đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng. Đây là những khái
niệm quan trọng cần tính đến khi xây dựng các văn bản pháp luật liên quan đến giao kết và
thực hiện hợp đồng trong môi trường điện tử.
1.2.4. Luật Hải quan.
Luật Hải quan (sửa đổi) được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày
14/06/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/01/2006 có bổ sung một số quy định về trình tự khai hải
quan điện tử, địa điểm khai, hồ sơ hải quan điện tử, thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất
nhập khẩu bằng Thương mại điện tử.
1.2.5. Luật sở hữu trí tuệ.
Luật sở hữu trí tuệ được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005
và có hiệu lực từ ngày 1/07/2006 thể hiện một bước tiến trong việc hoàn thiện hệ thống văn
bản pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Luật Sở hữu trí tuệ có một số điều khoản liên quan
đến thương mại điện tử như quy định về các hành vi bị xem là xâm phạm quyền tác giả,
quyền liên quan trong môi trường điện tử như cố ý huỷ bỏ, thay đổi thông tin quản lý quyền
dưới hình thức điện tử có trong tác phẩm, dỡ bỏ hoặc thay đổi thông tin quản lý quyền dưới
hình thức điện tử mà không được phép của chủ sở hữu quyền liên quan. Tuy không có quy
định cụ thể liên quan đến lĩnh vực thương mại điện tử, nhưng các nguyên tắc trong Luật Sở
hữu trí tuệ có thể áp dụng đối với lĩnh vực này. Đến ngày 19/ 6/ 2009 Quốc hội Việt Nam
9
thông qua Luật số 36/2009/QH12 để sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ số
50/2005/QH11.
1.2.6.Luật và văn bản thương mại điện tử năm 2008, 2009
* Nghị định số 97/2008/NĐ-CP - quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông

nước với các chuẩn quốc tế tới kỹ thuật ứng dụng và thiết bị ứng dụng; và không chỉ của
riêng từng doanh nghiệp, mà phải là một hệ thống quốc gia, với tư cách như một phân hệ của
hệ thống thông tin khu vực và toàn cầu, và hệ thống ấy phải tới được từng cá nhân trong hệ
thống thương mại.Chi phí các phương tiện công nghệ thông tin (điện thoại, máy tính ) và chi
phí dịch vụ truyền thông( phí điện thoại, phí nối mạng và truy cập ) phải đủ rẻ để đông đảo
người sử dụng có thể tiếp cận được.
Hiện nay hệ thống mạng thông tin và truyền thông của nước ta nhìn chung vẫn chưa đáp
ứng được nhu cầu truy cập mạng Internet nhanh của người tiêu dùng và các doanh nghiệp.
Giá cước truy nhập Internet hiện còn quá cao so với thu nhập của đa số dân chúng và cao hơn
nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính điều này đã hạn chế rất nhiều đến
số lượng người truy nhập vào Internet, đồng thời ảnh hưởng đến sự phát triển nhanh TMĐT ở
nước ta. Ngoài vấn đề giá cả viễn thông, chất lượng dịch vụ viễn thông, đặc biệt là chất lượng
dịch vụ Internet chưa thoả đáng cũng ảnh hưởng nhiều đến việc triển khai ứng dụng TMĐT ở
nước ta. Hệ thống máy chủ của các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) chưa thật sự đủ mạnh
để đáp ứng được số lượng lớn người truy cập vào mạng khi Việt Nam ứng dụng TMĐT. Với
số thuê bao chỉ đạt khoảng 0,4% dân số, Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ người sử
11
dụng Internet thấp nhất ASEAN (tỷ lệ sử dụng trung bình khối ASEAN là 1,5%, thế giới
8%).
Trong lĩnh vực điện tử- tin học Việt Nam vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn
Lĩnh vực điện tử: Phần lớn còn tập trung ở khâu lắp ráp (máy thu thanh, thu hình, radio-
cassetes). Hướng đi này chỉ thích hợp cho giai đoạn phát triển ban đầu. Ngoài ra, tổ chức sản
xuất còn tản mạn, công nghệ sản xuất và trình độ quản lý còn lạc hậu.
Lĩnh vực thiết bị tin học: Phần cứng thiết bị tin học chủ yếu là nhập khẩu. Nước ta hiện
vẫn là thị trường tiêu thụ máy tính của nước ngoài. Mặc dù nước ta đã lắp ráp máy vi tính
mang thương hiệu Việt Nam, nhưng tỷ lệ nội địa hóa còn thấp, phần lớn linh, phụ kiện vẫn
phải nhập khẩu với giá thành còn cao.
- Lĩnh vực điện tử công nghiệp và điện tử chuyên ngành khác: phần lớn còn nhập ngoại,
phần sản xuất được trong nước cũng chỉ ở mức riêng lẻ, đơn chiếc, quy mô nhỏ.
3/ HẠ TẦNG CƠ SỞ NHÂN LỰC.

2010 như: xây dựng các chương trình khung, xây dựng giáo trình và bồi dưỡng đội ngũ giảng
viên, sử dụng kinh phí từ nguồn ngân sách đào tạo sau Đại học (Chương trình 322) để khuyến
khích học tập TMĐT. Quan trọng hơn cả là 2 Bộ đã thống nhất đầu mối cho hoạt động hợp
tác và phát triển dự án là Vụ Đại học và Sau Dại học (Bộ GDĐT) và Vụ Thương mại Điện tử
(Bộ Thương mại). Thống nhất đầu mối là bước tiến cơ bản vì từ nay đã có một địa chỉ để tiếp
cận, phản hồi và giải quyết những vướng mắc từ các cơ sở đào tạo TMĐT trong cả nước. Bên
cạnh đó, Bộ Thương mại cũng đang xúc tiến thành lập Hiệp hội TMĐT Việt Nam (VECOM)
nhằm đáp ứng yêu cầu của các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này.
13
4/ HẠ TẦNG THANH TOÁN TỰ ĐỘNG( THANH TOÁN ĐIỆN TỬ )
Thanh toán điện tử là thanh toán trực tuyến qua mạng khi mua bán trao đổi là hình
thức thanh toán các chi phí mua bán sản phẩm, dịch vụ thông qua các hệ thống thẻ thanh toán
thay vì giao dịch trực tiếp bằng tiền mặt.
Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán
không dùng tiền mặt mà người chủ thẻ có thể sử dụng để
rút tiền mặt hoặc thanh toán tiền khi mua hàng hóa, dịch
vụ tại các điểm chấp nhận thanh toán bằng thẻ. Hệ thống
các loại thẻ có thể thanh toán điện tử bao gồm thẻ tín
dụng (Credit card), thẻ ghi nợ (Debit card) và thẻ rút tiền
mặt do các ngân hàng trong nước và quốc tế phát hành.
Hiện nay, tại Việt Nam Những dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt cho người tiêu
dùng sẽ được các ngân hàng đẩy mạnh trong năm 2008. Đến cuối năm nay, số lượng phương
tiện thanh toán điện tử sẽ được đưa vào sử dụng gần gấp đôi so với từ năm 2007 trở về trước.
Trong đó, máy rút tiền tự động ATM từ khoảng 4.500 chiếc hiện nay sẽ được đẩy lên 6.889.
Thiết bị thanh toán dùng thẻ POS (Point of Sale) lắp đặt tại điểm bán hàng từ 14.858 chiếc
lên 29.215 chiếc. Thẻ thanh toán dự kiến phát hành gần 14 triệu chiếc.
Tuy nhiên, Theo vụ Thương Mại Điện Tử (TMĐT), bộ Thương Mại, thì thanh toán
điện tử là trở ngại lớn thứ hai đối với việc mở rộng và phát huy hiệu quả thực sự của ứng
dụng TMĐT (sau yếu tố về nhận thức). Do sự thiếu kết nối tổng thể giữa các ngân hàng,
khách hàng và nhà cung cấp dịch vụ, hàng hóa khiến người tiêu dùng chưa mạnh dạn tham

thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ nếu quí khách hoàn trả toàn bộ dư nợ trên sao kê cho ngân
hàng đúng hạn. Cơ chế thanh toán linh hoạt: thanh toán toàn bộ hoặc số tiền tối thiểu trên sao
kê, giúp đầu tư hiệu quả cho tiền bạc của khách hàng.
15
Khách hàng sử dụng thẻ Cremium Visa được in ảnh trên thẻ. Phát hành miễn phí thẻ
tín dụng quốc tế khi đăng ký và sử dụng dịch vụ trả lương qua tài khoản thẻ với hạn mức
bằng 12 tháng lương (tối đa 49 triệu VND).
* Lợi ích của thẻ:
- Thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ tại hơn 9000 đại lý chấp nhận thẻ tại Việt Nam và
hơn 25 triệu đại lý chấp nhận thẻ trên toàn thế giới.
- Rút tiền mặt tại 1 triệu điểm rút tiền mặt, hơn 500.000 máy giao dịch tự động (ATM)
trên toàn thế giới và hơn 6.000 ATM tại Việt Nam hoạt động 24hx7 ngày.
- Tận hưởng các chương trình giảm giá, khuyến mãi thường xuyên của các đơn vị chấp
nhận thẻ trên phạm vi toàn cầu.
- Thực hiện giao dịch bằng bất kỳ loại tiền tệ nào trên thế giới
- Giảm rủi ro mang theo tiền mặt.
- Quản lý kế hoạch chi tiêu cá nhân dễ dàng qua các sao kê giao dịch hàng tháng.
- Được vay, hỗ trợ tài chính kịp thời từ ngân hàng đặc biệt khi đi công tác, theo học xa
nhà, hoặc du học ở nước ngoài.
- Dễ dàng đặt tour du lịch, khách sạn, và nhà hàng.
- Tham gia thương mại điện tử, mua sắm hàng hoá dịch vụ qua mạng Internet.
- Thay thế hiệu quả các khoản tạm ứng, công tác phí bằng tiền mặt của cơ quan cho
cán bộ khi đi công tác.
- Sở hữu phương tiện thanh toán uy tín và hiện đại
16
5/ BẢO MẬT, AN TOÀN.
5.1. Một số kỹ thuật áp dụng cho an toàn trong thương mại điện tử
5.1.1. Bảo vệ máy khách
Các máy khách (thông thường là các PC) phải được bảo vệ nhằm chống lại các đe doạ
xuất phát từ phần mềm hoặc dữ liệu được tải xuống máy khách từ Internet.

Số hiệu của chứng chỉ
Thông tin về ID và chữ ký số của CA
Hình 2 : Cấu trúc một chứng chỉ của VeriSign
c. Trình duyệt Internet của Microsoft (Microsoft Internet Explorer)
Internet Explorer cung cấp quyền bảo vệ phía máy khách trong các trình duyệt.
Internet Explorer cũng đối phó lại các chương trình động dựa vào Java và ActiveX. Internet
Explorer sử dụng kỹ thuật mã xác thực (Authenticode) của Microsoft để kiểm tra nhận dạng
các chương trình động được tải xuống. Các chương trình Authenticode có thể kiểm tra đối với
một ActiveX control được tải xuống như sau: ai là người đã ký chương trình, chương trình có
bị sửa đổi sau khi ký hay không và nội dung có nguồn gốc đúng từ nhà phát hành tin cậy hay
không. Đồng thời kiểm tra xem chương trình có chứng chỉ hợp lệ hay không. Tuy nhiên,
Authenticode không thể ngăn chặn được việc tải xuống một chương trình gây hại và chạy trên
máy tính của người dùng. Có nghĩa là, kỹ thuật Authenticode chỉ có thể xác nhận đúng là
công ty XYZ đã ký chương trình. Authenticode không thể đảm bảo Java hoặc ActiveX
control của công ty XYZ có thực hiện đúng đắn hay không. Trách nhiệm này thuộc về người
sử dụng, họ phải quyết định có nên tin cậy vào chương trình động từ các công ty hay không.
d. Netscape Navigator
18
Trình duyệt Netscape Navigator cho phép kiểm soát việc tải các chương trình động
xuống máy tính của người dùng. Netscape Navigator tải xuống chương trình động, giúp ta có
thể xem chữ ký gắn kèm với Java và JavaScript control (ActiveX control không thực hiện với
Netscape Navigator).
Nếu chương trình động viết bằng Java và JavaScript, ta sẽ thường xuyên nhận được
một thông báo từ Netscape Navigator. Thông báo cho biết chương trình động đã được ký hay
chưa, cho phép ta xem chứng chỉ đi kèm để xác định nên chấp nhận hay từ chối tải xuống các
chương trình động.
e. Đối phó với các cookie.
Cookie được lưu giữ trong máy trạm, hoặc được tạo ra, sử dụng và huỷ bỏ trong một
lần duyệt Web. Ta có thể cho phép đặt ra thời gian tồn tại từ 10, 20 hoặc 30 ngày. Một cookie
có chứa nhiều thông tin, chẳng hạn như tên của Website phát hành nó, các trang mà ta đã truy

mã. Chương trình mã hóa và logic sau chúng, gọi là thuật toán mã hoá, được coi là yếu tố cực
kỳ quan trọng. Biết được tầm quan trọng của một số thuật toán, chính phủ Mỹ đã ngăn cấm
việc công bố rộng rãi và chi tiết các thuật toán mã hoá. Một thuộc tính hấp dẫn và cần thiết
của các thuật toán hoặc các chương trình mã hoá là một người có thể biết chi tiết chương
trình mã hoá nhưng vẫn không có khả năng giải mã thông báo nếu không biết khoá được sử
dụng trong quá trình mã hoá. Độ dài tối thiểu của một khoá là 40 bit, nó có thể dài hơn, chẳng
hạn 128 bit, sẽ đảm bảo an toàn hơn nhiều do khó bị phát hiện.
Kiểu của khoá và chương trình mã hoá được sử dụng để "giữ bí mật" một thông báo.
Các phép mã được chia thành 3 loại:
• Mã hàm băm
• Mã hoá đối xứng
• Mã hoá không đối xứng
20
5.1.2.2. Các chuẩn và thuật toán mã hoá
Hiện có rất nhiều thuật toán thuộc các kiểu khoá riêng và khoá công khai như:
Blowfish, DES, ECC, IDEA, LUC, MD2, MD4, MD5, RC2, RC4, RC5, RC6, RSA,
SHA1,Skipjack, Triple DES.
5.1.3. Bảo vệ máy chủ thương mại
* Các bức tường lửa
Bức tường lửa được sử dụng như một hàng rào giữa một mạng (cần được bảo vệ) và
Internet hoặc mạng khác (có khả năng gây ra mối đe doạ). Mạng và các máy tính cần được
bảo vệ nằm bên trong bức tường lửa, các mạng khác nằm ở bên ngoài. Các bức tường lửa có
các đặc điểm sau đây:
Tất cả các luồng thông tin từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong đều phải chịu sự quản
lý của nó.
• Chỉ có các luồng thông tin được phép (do chính sách an toàn cục bộ xác định) đi qua
nó.
• Bức tường lửa tự bảo vệ mình.
Các mạng bên trong bức tường lửa được gọi là các mạng tin cậy, các mạng bên ngoài
được gọi là các mạng không tin cậy. Đóng vai trò như một bộ lọc, bức tường lửa cho phép

5.2. Bảo mật an toàn trong thanh toán
Vệc bảo mật trong khi thanh toán qua mạng là vấn đề chiến lược và là trọng tâm hàng
đầu trong TMĐT. Hiện nay, trong việc thanh toán qua mạng, các tổ chức tín dụng và các nhà
cung cấp dịch vụ xử lý thanh toán thẻ tín dụng trên thế giới áp dụng công nghệ bảo mật cao
cấp là SET.
22
- SET là viết tắt của các từ Secure Electronic Transaction, là một nghi thức tập hợp
những kỹ thuật mã hoá và bảo mật nhằm mục đích đảm bảo an toàn cho các giao dịch mua
bán trên mạng.
Đây là một kỹ thuật bảo mật, mã hóa được phát triển bởi VISA, MASTER CARD và
các tổ chức khác trên thế giới. Mục địch của SET là bảo vệ hệ thống thẻ tín dụng, tạo cho
khách hàng, doanh nghiệp, ngân hàng, các tổ chức tài chính sự tin cậy trong khi giao dịch
mua bán trên Internet.
Những tiêu chuẩn và công nghệ SET được áp dụng và thể hiện nhất quán trong các
doanh nghiệp, các ngân hàng/công ty cấp thẻ, tổ chức tín dụng và trung tâm xử lý thẻ tín
dụng qua mạng.
Ngoài ra, SET thiết lập một phơng thức hoạt động phối hợp tương hỗ (method of
interoperability) nhằm bảo mật các dịch vụ qua mạng trên các phần cứng và phần mềm khác
nhau.
Tóm lại SET được thiết lập để bảo mật những thông tin về cá nhân cũng như thông tin
về tài chính trong quá trình mua bán và giao dịch trên mạng.
* Doanh nghiệp (người bán) được bảo vệ không bị mất hàng hoá hay dịch vụ bởi:
- Những thẻ tín dụng không hợp lệ.
- Người chủ thẻ không đồng ý chi trả.
* Ngân hàng được bảo vệ bởi: Giao dịch mua bán không được sự đồng ý giữa các
thành phần tham gia vào giao dịch hoặc các giao dịch không hợp lệ (Thẻ tín dụng không hợp
lệ, người bán giả danh )
* Người mua được bảo vệ để: - Không bị đánh cắp thẻ tín dụng.
- Không bị người bán giả danh
23

không. Cho tới nay nhiều công ty thương mại giống như các công ty công nghệ khác có các
danh mục bằng sáng chế, thương hiệu, tên miền, phần mềm hay các cơ sở dữ liệu gốc trở
thành tài sản kinh doanh trị giá nhất của họ.
Vì vậy, ngày 19/ 6/ 2009 Quốc hội Việt Nam thông qua Luật số 36/2009/QH12 để sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 ban hành năm 2005. Luật
này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/ 1/ 2010.
7/ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG.
Do trong TMĐT cả người mua lẫn người bán không cần gặp nhau, biết nhau nên dễ
xảy ra các rủi ro và người bị thiệt thường là người tiêu dùng bởi vì họ phải trả tiền trước cho
các sản phẩm, dịch vụ mà họ mua qua mạng song lại chưa biết được chất lượng sản phẩm và
việc giao hàng có diễn ra đúng như người bán đã cam kết không. Vấn đề sẽ trở nên phức tạp
hơn khi hai chủ thể ở hai quốc gia khác nhau, chịu các luật điều chỉnh khác nhau, thẩm quyền
tài phán khác nhau. Do vậy trong quy định pháp lý cho các bên tham gia TMĐT, các quốc gia
đều bảo vệ người tiêu dùng. Tuy nhiên, do luật pháp các nước là không giống nhau nên nếu
hai chủ thể thuộc hai quốc gia khác nhau thì hai bên cần thoả thuận trước về luật sẽ áp dụng.
Hai văn bản cơ bản để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là: Pháp lệnh Bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng do UBTVQH ban hành số 13/1999/PL- UBTVQH và Luật Cạnh tranh có
hiệu lực từ 1/7/2005.
Ngày 24/4/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định 55/2008/NĐ-CP, về việc quy định
chi tiết việc thi hành Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Quyền lợi của người tiêu dùng còn được bảo vệ bởi nhiều quy định trong các văn bản
pháp luật khác như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Thương mại, Luật tiêu chuẩn về
25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status