Nâng cao chất lượng tín dụng tại phòng Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam chi nhánh Bách Khoa - pdf 12

[h2:3kif156x]Download miễn phí[/h2:3kif156x]
Trên cơ sở số liệu về huy động vốn và cho vay chúng ta nhận thấy rằng giữa nguồn vốn huy động và doanh số cho vay có sự chênh lệch lớn, phải chăng ngân hàng đã rơi vào tình trạng ứ đọng vốn.Tình hình thực tế cho thấy hiện nay trong nền kinh tế lượng ngoại tệ đang còn thiếu nhiều bởi tỷ giá giữa đồng USD và đồng VND đang ở mức tương đối cao.Trong trường hợp không cho vay hết thì cho Ngân hàng Nông nghiệp Trung ương vay để từ đó Ngân hàng Nông nghiệp Trung ương cho các chi nhánh khác trong hệ thống vay.

[h3:3kif156x]Tóm tắt nội dung:[/h3:3kif156x]ần đây:
2.2.1 Tình hình sử dụng vốn huy động:
Tại phòng giao dich nhno&ptnt chi nhánh Bách Khoa hàng ngày hàng giờ đang diễn ra các hoạt động kinh doanh đa dạng và phong phú. Căn cứ vào các kết quả thu được ta thấy rằng hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản tại phòng và có vị trí hết sức quan trọng. Và để hoạt động tín dụng đem lại kết quả cao thì cần thực hiện tốt đồng thời các nghiệp vụ .
- Các nghiệp vụ bên nợ (huy động vốn)
- Các nghiệp vụ bên có (sử dụng vốn)
- Các nghiệp vụ trung gian (chuyển tiền thanh toán)
Chính vì vậy mà huy động vốn không phải là một hoạt động độc lập riêng rẽ, có huy động được vốn thì mới có vốn cho vay ngược lại cho vay có hiệu quả kinh tế phát triển thì mới có nguồn vốn lớn để huy động đồng thời có làm tốt nghiệp vụ trung gian thì hai nghiệp vụ trên mới được thực hiện tốt. Như vậy cả ba nghiệp vụ này tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau và hỗ trợ nhau cùng phát triển. Nói cách khác ngân hàng phải thực hiện chiến lược kinh doanh tổng hợp mà trong đó nghiệp vụ huy động vốn phải được chú trọng để kết hợp cùng hai nghiệp vụ còn lại tạo nên hiệu quả hoạt đông của ngân hàng.
Hiện nay trong cơ chế thị trường, các Ngân hàng thương mại đều hoạt động kinh doanh theo hướng “đi vay để cho vay” không sử dụng đến nguồn cấp phát mà huy động vốn theo hướng có lợi trong kinh doanh.
Sau đây là số liệu cụ thể về tình hình huy động vốn tại phòng giao dịch nhno &ptnt chi nhánh Bách Khoa trong thời gian qua.
Bảng 1: Biến động nguồn vốn huy động giai đoạn 2006-2008
Đơn vị :Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
+/-tuyệt đối
2007-2006
+/-tương đối % 2007-2006
+/-tương đối % 2008-2007
+/-tương đối
2008-2007
Không kỳ hạn
81309
126950
123378
45641
+56%
-3572
-2,8%
Có kỳ hạn
163675
365103
417520
201420
+123%
52417
+14,4%
Tổng
244984
492053
540898
(Nguồn:Bảng cân đối kế toán)
Qua số liệu Bảng 1 cho ta thấy nguồn vốn huy động tại phòng giao dịch tăng nhanh qua các năm đặc biệt là từ năm 2006 đến 2007 thì tiền gửi không kỳ hạn tăng lên 56%, tiền gửi có kỳ hạn tăng 123%. Sang năm 2008 mặc dù nguồn vốn huy động không kỳ hạn có giảm nhưng không đáng kể còn nguồn vốn có kỳ hạn vẫn tiếp tục tăng điều đó chứng tỏ rằng trong những năm qua phòng giao dich đã có nhiều cố gắng và đưa ra những biện pháp tích cực năng động, sáng tạo để thu hút khách hàng mở tài khoản tiền gửi cũng như gửi tiền tiết kiệm, phục vụ khách hàng với thái độ văn minh, lịch sự có, trách nhiệm, đơn giản các thủ tục rườm rà không cần thiết. Kết quả cho thấy phòng giao dịch đã đạt được những thanh công nhất định.
Mặt khác ta thấy rằng nguồn vốn huy động có kỳ hạn luôn luôn tăng lên và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động cụ thể là :
- Nguồn vốn kỳ hạn năm 2006 chiếm tỉ lệ là 67%.
- Nguồn vốn kỳ hạn năm 2007 chiếm tỉ lệ là 74%.
- Nguồn vốn kỳ hạn năm 2008 chiếm tỉ lệ là 77%.
Để đứng vững và phát triển trong nền kinh tế đầy cạnh tranh như hiện nay các ngân hàng buộc phải xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh một cách hợp lý và phòng giao dịch cũng vậy. Phòng giao dịch luôn luôn quan tâm tới vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng. Trên cơ sở nguồn vốn huy động được Sở tiến hành phân phối sử dụng vốn sao cho có hiệu quả bởi cho vay là khâu tiếp nối của hoạt động tạo vốn và là khâu cuối cùng quyết định chất lượng hiệu quả tín dụng.
Bên cạnh đó chúng ta biết rằng huy động vốn và sử dụng vốn là hai mặt của một quá trình hoạt động tín dụng vì vậy vấn đề cho vay vốn cần được chú trọng, quan tâm, làm sao vừa đáp ứng đựoc nhu cầu sản xuất kinh doanh, vừa mang lại hiệu quả kinh tế, không chỉ cho bản thân phòng giao dịch mà còn cho cả nền kinh tế.
Đối tượng cho vay tại phòng giao dịch là các doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân, hộ gia đình, cá nhân so.Việc cho vay của phòng giao dịch đã có tác dụng tích cực giúp cho các doanh nghiệp phát triển được sản xuất kinh doanh, tăng thu ngân sách góp phần đấu tranh hạn chế cho vay nặng lãi .
Phòng giao dịch chủ động trong việc sử dụng vốn vay có tính đến nhu cầu và khả năng thực tế của từng đơn vị, phân loại doanh nghiệp, cho vay có chọn lọc và thường xuyên quan tâm tới công tác thu nợ nhằm tăng nhanh vòng quay vốn tín dụng.
Thực chất vấn đề cho vay vốn của ngân hàng được đánh giá tốt hay xấu không phải căn cứ vào số dư nợ cho vay có tăng hơn không mà phải xem xét chất lượng tín dụng như thế nào có nghĩa là phải xem xét vốn mà ngân hàng cho vay có đúng mục đích hay không, khách hàng có trả được nợ hay không và trả nợ có đúng hạn không. Vì vậy việc đánh giá tình hình sử dụng vốn vay của ngân hàng phải được xem xét trên các chỉ tiêu như : tình hình cho vay, thu nợ, nợ quá hạn...và các biện pháp nhằm mở rộng tín dụng tại ngân hàng.
Sau đây là số liệu cụ thể về tình hình tín dụng vốn tại ngân hàng:


Link download cho anh em
m0orP66O3SKYaOO
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status