Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng cà phê xuất khẩu của Việt Nam - pdf 12

Download Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng cà phê xuất khẩu của Việt Nam miễn phí



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1. PHÂN TÍCH VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA MẶT HÀNG CÀ PHÊ XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM. 3
1.1. Tổng quan về nghành cà phê của Việt Nam. 3
1.1.1. Vị trí, vai trò của ngành cà phê trong nền kinh tế. 3
1.1.2. Tình hình phát triển của ngành cà phê trong những năm gần đây. 6
1.2. Thực trạng hoạt động xuất khẩu cà phê Việt Nam. 7
1.2.1. Kim ngạch xuất khẩu. 7
1.2.2. Thị trường xuất khẩu. 8
1.2.3. Chủng loại cà phê xuất khẩu. 10
1.2.4. Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động xuất khẩu cà phê. 11
1.3. Đánh giá về khả năng canh tranh của sản phẩm cà phê của Việt Nam. 13
1.3.1. Về chất lượng cà phê. 14
1.3.2. Về giá cà phê. 16
1.3.3. Về chủng loại cà phê. 16
1.3.4. Các yếu tố khác. 17
Chưng 2. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA MẶT HÀN CÀ PHÊ XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM. 18
2.1. Dự báo xu hướng của thị trường cà phê thế giới. 18
2.2. Chiến lược phát triển của ngành cà phê Việt Nam đến năm 2010 19
2.2.1. Chiến lược phát triển chung của ngành cà phê đến năm 2010 19
2.2.2. Chiến lược phát triển đối với lĩnh vực xuất khẩu cà phê. 20
2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng cà phê xuất khẩu của Việt Nam. 21
2.3.1. Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm cà phê xuất khẩu của Việt Nam. 21
2.3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của cà phê xuất khẩu của Việt nam. 22
a. Nâng cao chất lượng sản phẩm. 22
b. Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm. 24
c. Đâu tư công nghệ sản xuất, giảm giá thành sản phẩm. 25
d. Quy hoạch, quản lý nguồn nguyên liệu, điều tiết nguồn cung. 26
e. Nâng cao hiệu quả hoạt động của hiệp hội Cà phê -Ca cao. 27
f. Các giải pháp khác. 27
KẾT LUẬN 29
TÀI LIỆU KHAM KHẢO 30
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-32635/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ờng nhập khẩu cà phê chính của Việt Nam ngày càng được mở rộng. Đặc biệt là một số nước sản xuất cà phê ở Châu Mỹ La tinh cũng mua cà phê Việt Nam như: Ecuador: 18.492 tấn, Mỹ: 87.932 tấn. Tiếp theo là Ý, Ba Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Anh, Bỉ và Pháp. Đó là 10 nước hàng đầu trong vụ cà phê 2005/06. Trong nội khối các nước ASEAN, Philippines nhập khẩu cà phê Việt Nam với số lượng 16.547 tấn; Malaysia 12.367 tấn; Singapore 5.690 tấn và Indonesia 806 tấn. Với thị trường Trung Quốc, số lượng nhập khẩu cà phê Việt Nam vẫn duy trì ổn định ở mức 12.865 tấn. .
Với thị trường Nga và Đông Âu, Nga nhập của Việt Nam 14.175 tấn; Romania 7567 tấn; Bulgaria 5343 tấn; Slovenya 3417 tấn; Estonia 3.199 tấn; Cộng hoà Czech 3064 tấn; Gruzia 1875 tấn; Hungary 1787 tấn; Yugoslavia 1684,6 tấn; Slovakia 326,4 tấn; Ucraina 153 tấn; Latvia 216,5 tấn; Armenia 38, 4 tấn. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho ngành cà phê xuất khẩu Việt Nam.
Cà phê của Việt Nam xuất khẩu sang hơn 40 nước trên thế giới. Chỉ tính riêng hai thị trường lớn nhất là Đức và Mỹ đã chiếm tới hơn 25% kim nghạch xuất khẩu, bảy thị trường lớn chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam (năm 2007)
Một số thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam năm 2007
Nguồn Vụ xuất nhập khẩu - Bộ công thương
1.2.3. Chủng loại cà phê xuất khẩu.
Chủng loại cà phê xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam hiện nay là cà phê Robusta với giá trị thương phẩm không cao. Trong khi đó thế giới lại ưa chuộng loại cà phê Arabica có hương vị thơm ngon hơn.
Chủng loại cà phê xuất khẩu của Việt Nam chưa phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của thị trường thế giới. Hiện nay, thị trường thế giới có nhu cầu lớn về cà phê Arabica chiếm 70-80% nhu cầu cà phê hàng năm), trong khi đó 65% diện tích, chiếm hơn 90 % sản lựơng cà phê ở Việt Nam lại là cà phê Rubusta. Xuất khẩu cà phê của Việt Nam chủ yếu là cà phê Robusta (hơn 90%) với giá trị thương phẩm không cao. Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới (hơn 10% lượng cà phê xuất khẩu của thê giới), với cà phê vối thì nước ta là nước xuất khẩu lớn nhất thê giới với hơn 40% sản lượng xuất khẩu của toàn thế giới. Vì vậy, trong thời gian tới chuyển đổi cơ cấu cà phê là vấn đề bức xúc cho việc sản xuất cà phê và xuất khẩu cà phê của Việt Nam.
Số liệu Các loại cà phê xuất khẩu của Việt Nam niên vụ 2005/06
STT
Loại cà phê
Khối lượng (tấn)
Trị giá (USD)
1
Nhân sống
785,146,773
837,771,354
2
Hoà tan
869,705
2,770,341
3
Khác
8,890
92,996
Tổng
786,025,368
840,634,691
Nguồn : Vụ xuất nhập khẩu - Bộ Công Thương
1.2.4. Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động xuất khẩu cà phê.
Hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam phụ thuộc vào nhiều yếu tố như : nguồn cung cà phê, thị trường, cầu cà phê thế giới.
Hiện nay Việt Nam có gần 490 nghìn ha cà phê được phân bố chủ yếu ở các tỉnh Tây Nguyên (hơn 90% diện tích). Đã là một điều kiện thuận lợi cho chúng ta có thể đảm bảo nguồn cung cà phê cho hoạt động xuất khẩu. Cũng như nhiều loại cây trồng khác thì việc sản xuất cà phê cũng phụ thuộc lớn vào điều kiện thời tiết, gặp năm thời tiết không thuận lợi thì không thể đảm bảo đủ lượng cà phê xuất khẩu, khó duy trì mức sản lượng xuất khẩu ổn định. Tuy nhiên năm được mùa thì cà phê xuất khẩu lại phải đối mặt với một thực trạng là giá cà phê xuống thấp do cung lớn hơn cầu.
Khi gia nhập WTO Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển. Được hưởng sự bình đẳng như các nước xuất khẩu khác, các rào cản xuất khẩu được gỡ bỏ, cơ hội thị trường mở rộng, có điều kiện tiếp nhận các công nghệ sản xuất mới. Tuy nhiên các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu cà phê của ta cũng cần nhận thức được những khó khăn.
Trước hết là về chính sách thuế. Việt Nam không nằm trong số những nước được ưu tiên về thuế quan đối với các sản phẩm cà phê hoà tan khi tham gia vào các thị trường truyền thống như Mỹ, Nhật Bản, và EU... Các nước này áp dụng thuế nhập khẩu gần như bằng 0% đối với hầu hết các nước xuất khẩu cà phê ở châu Mỹ. Trong khi đó mức thuế này hiện áp dụng đối với Việt Nam là từ 2,6% đến 3,1%. Bên cạnh đó, nhiều nước sử dụng hàng rào phi thuế quan như là biện pháp bảo hộ ngành công nghiệp chế biến cà phê trong nước. Đây là những rào cản rất lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi thâm nhập trực tiếp vào các thị trường này và buộc phải xuất khẩu qua các công ty trung gian ở các nước được hưởng mức thuế quan ưu đãi hơn.
Thứ hai là về chiến lược phát triển ngành cà phê trong tổng thể ngành nông nghiệp Việt Nam. Hiện nay, các mục tiêu đề ra đối với ngành cà phê Việt Nam trong những năm tới chưa được đặt chung trong bối cảnh phát triển chung của ngành nông nghiệp cũng như ngành kinh tế Việt Nam. Vì vậy, ngành cà phê phát triển thiếu tính nhất quán và thống nhất chung với tổng thể ngành nông nghiệp Việt Nam. Hậu quả là không nhận được sự hỗ trợ tích cực từ chiến lược phát triển của ngành nông nghiệp cả nước.
Thứ ba là các chính sách do các cơ quan chức năng ban hành còn thiếu tính linh hoạt. Mặc dù hiện nay có nhiều điều khoản ưu đãi đối với tất cả các tác nhân tham gia kênh sản xuất, chế biến và tiêu thụ cà phê như lãi suất thấp, khoanh nợ, giãn nợ... nhưng tất cả các yếu tố để tiếp cận với chính sách này đều chưa tốt. Đầu tiên là những quy định về vốn vay hiện nay chủ yếu quan tâm đến giá trị tài sản thế chấp hơn là khả năng sinh lợi của dự án vay. Việc quy định lượng tiền vay không vượt quá một tỷ lệ % nhất định của giá trị tài sản cũng gây nhiều khó khăn cho người có nhu cầu vay vốn. Thiếu tài sản thế chấp là cản trở lớn nhất đối với những người trồng cà phê cùng kiệt và các doanh nghiệp qui mô nhỏ. Tiếp theo là các thủ tục hành chính của các ngân hàng chưa thông thoáng, gây nhiều khó khăn cho người vay.
Một điều nữa là vấn đề đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn nhanh nhưng chưa tương xứng, mặc dù trong 10 năm qua, nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng như giao thông, truyền thông, thuỷ lợi, điện… đã có những chuyển biến đáng kể. Ví dụ như đường giao thông kém sẽ làm tăng chi phí vận chuyển, giảm giá thu mua tại các điểm thu mua cà phê khác nhau, đặc biệt là tại các vùng sâu, vùng xa, đường càng xấu thì giá càng thấp. Chi phí sử dụng mạng Internet hiện nay ở nước ta vẫn còn cao hơn các nước trong khu vực.
Hệ thống kiểm tra, giám sát tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm còn yếu kém và lạc hậu. Các nước có mức tiêu thụ cà phê lớn coi trọng vấn đề kiểm tra và giám sát chất lượng, xuất xứ và thương hiệu của hàng hoá, trong khi ở Việt Nam hoạt động này chưa được chú trọng đối với ngành cà phê từ sản xuất đến xuất khẩu. Hiện tượng bán hàng giả dưới tên các thương hiệu cà phê nổi tiếng có xu hướng tăng lên trong thời gian gần đây. Điều này tạo nên những bất lợi đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ do chi phí để bảo vệ thương hiệu hàng hoá vượt quá sức của họ.
Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chỉ thực sự thực ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status