Tiểu luận Chính phủ - Cơ quan chấp hành của quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam - pdf 13

Download Tiểu luận Chính phủ - Cơ quan chấp hành của quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam miễn phí



MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu.1
Nội dung.2
Vị trí,tính chất, chức năng của Chính phủ.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất
Kết luận.8
Danh mục tài liệu tham khảo
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-37491/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ĐỀ BÀI:
CHÍNH PHỦ - CƠ QUAN CHẤP HÀNH CỦA QUỐC HỘI, CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CAO NHẤT CỦA NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM.
LỜI MỞ ĐẦU
Việc thành lập và hoàn thiện các quy định pháp luật về Chính phủ là mối quan tâm của nhiều quốc gia. Ở nước ta trước cách mạng tháng Tám năm 1945, để đảm nhiệm tốt công tác chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền, Quốc dân đại hội đã bầu ra Uỷ ban dân tộc giải phóng – tiền thân của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Chỉ một ngày sau khi giành chính quyền, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 03/9/1945, Hồ Chủ tịch đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó có nhiệm vụ xây dựng Hiến pháp – đạo luật cơ bản của một Nhà nước mới ra đời. Ngày 6/1/19946, cuộc tổng tuyển cử đã được tiến hành trong phạm vi cả nước, Quốc hội được thành lập. Tại kì họp thứ nhất (2/3/1946), Quốc hội khoá I đã lập ra Chính phủ chính thức bap gồm: Chủ tịch nước, phó chủ tịch nước và Nội các.
Hiến pháp năm 1959 ra đời, mô hình Chính phủ có thay đổi nhất định. Chính phủ được đổi tên thành Hội đồng Chính phủ, thành phần của chính phủ bao gồm: Thủ tướng, các phó thủ tướng, bộ trưởng và uỷ ban nhà nước.
Đến hiến pháp năm 1980 thì Hội đồng Chính phủ được đổi tên thành Hội đồng Bộ trưởng. Hiến pháp năm 1992 ra đời với nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và những kinh nghiệm tích luỹ được trong thực tiễn tổ chức quyền lực nhà nước, bộ máy nhà nước đã có những cải cách phù hợp, đặc biệt là hệ thông cơ quan quản lí nhà nước. Hội đồng Bộ trưởng được đổi tên thành Chính phủ, quy định tại Chương VIII Hiến pháp năm 1992 và cụ thể hoá trong Luật tổ chức Chính phủ 30/9/1992.
NỘI DUNG
Mỗi quốc gia có những quan niệm khác nhau về Chính phủ vì vậy có những tên gọi khác nhau như: nội các, hội đồng hành pháp, hội đồng bộ trưởng…
Ở nước ta theo Hiến pháp, hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước lập ra để chuyên thực hiện một loại hoạt động đặc biệt của Nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành (hay còn gọi là hoạt động hành chính nhà nước, hoạt động quản lý nhà nước) trong mọi lĩnh vực: hành chính – chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Hoạt động quản lý Nhà nước là kênh chủ yếu mà thông qua đó các chính sách của Đảng và của Nhà nước được đưa vào cuộc sống. Hoạt động của các cơ quan nhà nước này thường trực tiếp gắn liền với cuộc sống của nhiều tầng lớp nhân dân.
Để các cơ quan quản lí có hiệu quả các chức năng này Nhà nước đã tạo những điều kiện cần thiết, những đảm bảo về mặt tổ chức pháp lí như: các cơ quan quản lí có một hệ thống bộ máy đông đảo từ trung ương đến tận cơ sở… Hiến pháp là đạo luật cơ bản về tổ chức bộ máy nhà nước đã thiết lập ra hệ thống các cơ quan quản lí và quy định những yếu tố cơ bản của địa vị pháp lí của chúng.
Đứng đầu hệ thống các cơ quan quản lí Nhà nước nói trên là Chính phủ.
VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT, CHỨC NĂNG CỦA CHÍNH PHỦ
Theo Hiến pháp năm 1946, Chính phủ là “cơ quan hành chính cao nhất của Tổ quốc”. Cơ cấu của Chính phủ gồm chủ tịch nước, phó chủ tịch nước và nội các. Tổ chức và hoạt động của Chính phủ có những nét đặc thù so với các Chính phủ sau này, thể hiện: Chính phủ mặc dù được nghị viện lập ra nhưng không phải là cơ quan chấp hành của Nghị viện và trong cơ cấu của nó gồm cả Chủ tịch nước. Chủ tịch nước do Nghị viện bầu, là người thay mặt cho đất nước về đối nội và đối ngoại. Còn nội các là một cơ cấu trong Chính phủ gồm Thủ tướng, các bộ trưởng, thứ trưởng và có thể có phó thủ tướng. Nội các chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Chính phủ lúc bấy giờ hoạt động như một cơ quan hành pháp cao nhất.
Với Hiến pháp năm 1959, Chính phủ được coi là Hội đồng Chính phủ là “cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà” (Điều 71). Ở đây Chủ tịch nước không trong thành phần của Hội đồng Chính phủ. Hội đồng Chính phủ do thủ tướng đứng đầu là cơ quan chấp hành của Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Bên cạnh đó Hội đồng Chính phủ còn là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước ta tức là cơ quan đứng đầu hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước đảm nhận một lĩnh vực hoạt động độc lập – hoạt động hành chính Nhà nước.
Trong Hiến pháp 1980 chỉ đổi tên từ Hội đồng Chính phủ thành Hội đồng bộ trưởng. Điều 104 Hiến pháp này quy định: “Hội đồng bộ trưởng là Chính phủ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành và hành chính cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất”.
Quy định này phản ánh quan niệm một thời cho rằng: Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và giám sát – phải thực sự trở thành “tập thể hành động”. Hội đồng bộ trưởng được tổ chức theo tinh thần đó là cơ quan chấp hành – hành chính Nhà nước cao nhất của Quốc hội. Chức năng, nhiệm vụ của nó là thực hiện những hoạt động chấp hành – hành chính được Quộc hội giao cho.Hội đồng bộ trưởng là Chính phủ, do Quốc hội lập ra, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội đồng thời là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước ta (chứ không phải Quốc hội). Nói cách khác nhà nước thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nếu như Hiến pháp năm 1946 không quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, quyền hành chính Nhà nước cao nhất đứng riêng rẽ như một cành quyền lực độc lập thì các Hiến pháp sau này 1959, 1980 đã thức nhận tính phụ thuộc của hành pháp và lập pháp, chí ít là trong lĩnh vực chấp hành. Đặc biệt Hiến pháp 1980 còn thừa nhận thật rõ, không những Chính phủ là cơ quan chấp hành, mà còn là hành chính cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.
Phải đến Hiến pháp năm 1992 ta mới có thể thấy được một quy định rõ ràng. Theo Hiến pháp năm 1992 được gọi đơn giản là Chính phủ. Dù có tên gọi khác nhưng Chính phủ đều được xác định là cơ quan Nhà nước có chức năng hành pháp. Điều 109 Hiến pháp năm 1992 quy định: Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cùng với thay đổi về tên gọi, Chính phủ có nhiều thay đổi theo hướng đổi mới về cơ cấu tổ chức và hoạt động nhằm đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Cũng như Quốc hội, Hiến pháp đã dành một chương riêng quy định về Chính phủ và cũng điều đầu tiên của chương này Hiến pháp quy định một cách khái quát hoá vị trí pháp lí của Chính phủ. Chính phủ là cơ quan đứng đầu trong hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước. Chức năng của Chính phủ là thống nhất việc quản lí thực hiện c
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status