Vị trí, tính chất, vai trò của Quốc hội qua các thời kì phát triển - pdf 13

Download Tiểu luận Vị trí, tính chất, vai trò của Quốc hội qua các thời kì phát triển miễn phí



Với tư cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, Quốc hội chịu sự giám sát và chịu trách nhiệm trước nhân dân( người được đại diện) về việc thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn được giao.Điều đó đã được thực hiện trong Hiến Pháp cụ thể là đại biểu Quốc hội chịu sự giám sát của nhân dân; chịu sự giám sát của cử tri; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội; trả lời những yêu cầu kiến nghị của cử tri . Ngoài ra, để tạo điều kiện cho nhân dân có thể giám sát được hoạt động của Quốc hội, điều 66 Luật tổ chức Quốc hội quy định Quốc hội họp công khai. Trong trường hợp cần thiết , đề nghị của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, thủ tướng Chính phủ hay ít nhất 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội, Quốc hội quyết định họp kín. Trên thực tế, Quốc hội và các đại biểu Quốc hội chịu sự giám sát của nhân dân thông qua việc bảo đảm cho nhân dân theo dõi quá trình làm việc của Quốc hội( như tham gia các phiên họp , truyền hình trực tiếp các phiên họp của toàn thể Quốc hội, đặc biệt là phiên họp chất vấn của Quốc hội) thông qua việc đại biểu Quốc hội phải báo cáo các hoạt động tại đơn vị bầu cử của mình bầu ra mình.

Sáu mươi năm qua, với 11 khóa, thay mặt cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân cả nước, Quốc hội nước ta đã xây dựng và thông qua 4 bản Hiến pháp.Tất cả các bản Hiến pháp đều là sản phẩm trí tuệ của toàn dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào cả nước, quyết tâm tiến hành công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong từng thời kỳ. Các Hiến pháp không phủ định nhau mà kế thừa và phát triển Hiến pháp trước, với nội dung thể hiện sâu sắc ý chí và nguyện vọng của nhân dân, vừa thấm đượm những giá trị vốn có của dân tộc ta, vừa tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của nhân loại. Trên cơ sở các Hiến pháp, Quốc hội các khóa đã lần lượt được nhân dân bầu ra, với tổ chức và hoạt động không ngừng được đổi mới, hiệu lực và hiệu quả hoạt động ngày càng nâng cao, được nhân dân quan tâm, đồng tình, ủng hộ .Qua đó thể hiện tính thay mặt cho nhân dân cả nước của Quốc Hội.
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.VỊ TRÍ,TÍNH CHẤT, VAI TRÒ CỦA QUỐC HỘI QUA CÁC THỜI KÌ PHÁT TRIỂN.
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, Quốc hội đã trải qua gần XI khóa hoạt động và có thể chia thành bốn thời kì căn cứ vào bốn bản Hiến pháp mà Quốc hội đã ban hành như sau:
1.Thời kì 1946-1960
Quốc hội khóa I (1946-1960) với 12 kỳ họp đã có những đóng góp to lớn vào việc xây dựng nhà nước dân chủ cộng hòa từ những năm tháng đầu tiên sau khi cách mạng tháng tám thành công, Quốc hội đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Quốc hội đã thông qua các kế hoạch khôi phục, cải tạo, phát triển kinh tế, văn hóa, xây dựng bộ máy nhà nước, thông qua bản Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Đánh giá về công lao to lớn của Quốc hội khóa I, tại kì họp thứ 12, Chủ tịch nước Hồ Chí Minh đã nói: “Quốc hội ta đã hết lòng vì dân,vì nước, đã làm trọn một cách vẻ vang nhiệm vụ của những người đại biểu của nhân dân”.
Nội dung bản Hiến pháp 1946 đã tuyên bố tất cả quyền lực trong nước đều thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực bằng cách bầu ra cơ quan thay mặt quyền lực. Do đó, ngay từ Hiến pháp năm 1946, nhân dân ta đã thực hiện quyền làm chủ đất nước bằng cả hình thức dân chủ thay mặt và hình thức dân chủ trực tiếp. Cơ quan thay mặt quyền lực cao nhất của nhân dân là Nghị viện nhân dân.
2.Thời kì 1960-1980
Trong thời kì này, Quốc hội hoạt động theo Hiến pháp 1959 và trải qua 5 khóa hoạt động: Quốc hội khóa II (1960-1964), khóa III ( 1964-1971), khóa IV ( 1971-1975), khóa V (1975- 1976), khóa VI ( 1976-1981).
Hiến pháp 1959 quy định rõ ràng và đầy đủ hơn trước về vị trí, vai trò của Quốc hội. Theo đó, Quốc hội có 17 nhiệm vụ, quyền hạn như làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm pháp luật, giám sát việc thi hành Hiến pháp, vv…Hiến pháp 1959 tiếp tục khẳng định: “ Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân” và “Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”( Điều 4).
Trong giai đoạn này, Quốc hội đã phát huy vai trò quan trọng của mình trong việc động viên sức người, sức của để xây dựng Chủ nghĩa xã hội, kháng chiến dành thắng lợi, thống nhất đất nước.
3.Thời kì 1980-1992
Đây là thời kì Quốc hội được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp năm 1980, theo đó Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Quốc Hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
4.Thời kì từ năm 1992 đến nay
Đây là thời kì Quốc hội được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp 1992. Để thể hiện sự tập trung ( thống nhất) quyền lực, Hiến pháp 1992 khẳng định Quốc hội vẫn là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Ngoài ra trong tổ chức hoạt động của Quốc hội đã có những đổi mới cơ bản, khắc phục tính hình thức, hạn chế trong hoạt động ở các khóa Quốc hội trước và ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng là cơ quan thay mặt dân cử cao nhất, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
II.QUỐC HỘI LÀ CƠ QUAN ĐẠI BIỂU CAO NHẤT CỦA NHÂN DÂN.
Theo điều 83, Hiến pháp 1992, Quốc Hội là cơ quan thay mặt cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước ta.
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất đã khẳng định Nhà Nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa việt nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Đồng thời Hiến Pháp cũng xác định trách nhiệm của nhà nước là bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, mọi người đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Xuất phát từ bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Hiến pháp đã chỉ ra cách thức nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước. Điều 6 Hiến Pháp 1992 quy định:” Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc Hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan thay mặt cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Như vậy, có thể khẳng định rằng, theo Hiến Pháp thì nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan thay mặt cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan thay mặt cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, nhưng Quốc hộ là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân.
1.Quốc Hội do toàn dân bầu ra.
Quốc hội Việt Nam là cơ quan duy nhất do toàn dân trực tiếp bầu ra dựa trên nguyên tắc đã được Hiến pháp quy định đó là phổ thông, đầu phiếu, bình đẳng, và bỏ phiếu kín. Thông qua bầu cử, cử tri cả nước lựa chọn những đại biểu thay mặt cho tiếng nói và nguyện vọng của mình để hình thành lên Quốc hội. Việc người dân tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội thể hiện tính dân chủ trong nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Các đại biểu Quốc hội do cử tri trực tiếp bầu ra với nhiệm kì 5 năm. Hệ thống bầu cử ở đây chỉ áp dụng chế độ đại cử tri hay chế độ thay mặt theo các cơ cấu chính trị- xã hội như ở nhiều nước khác. Quốc hội có cơ cấu thành phần phản ánh sự đoàn kết rộng rãi,theo quy định của Hiến pháp và Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, tất cả các công dân Việt Nam từ đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và từ đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội. Đại biểu Quốc hội thay mặt cho các tầng lớp nhân dân, từ thay mặt của nông dân đến thay mặt của đội ngũ trí...


m64el64F7X3o82L
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status