Tiểu luận Những đặc trưng cơ bản của pháp luật phong kiến Trung Quốc - pdf 13

Download Tiểu luận Những đặc trưng cơ bản của pháp luật phong kiến Trung Quốc miễn phí



Pháp trị là tư tưởng chính trị quan trọng của phái Pháp gia. Một trong những thay mặt xuất sắc của Pháp gia là Thương Ưởng (390 - 338 TCN) với việc áp dụng học thuyết "Hình danh" (một nhánh của pháp gia) trong khi thực hiện Biến pháp ở nước Tần. Học thuyết này được tóm gọn ở hai điều:
- Mọi người dân bình đẳng trước pháp luật(6).
- Lấy thưởng phạt làm nguyên lý trị nước, không cần giáo dục.
Có thể thấy đường lối: 'không cần giáo dục' của pháp gia có nguồn gốc từ học thuyết "vô vi" của Lão Tử và đó là đặc trưng cơ bản để phân biệt học thuyết Pháp gia với Nho gia.
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38278/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

A. Phần mở đầu.
Pháp luật Trung Quốc thời phong kiến đã đạt tới sự phát triển tương đối cao so với luật pháp ở các nước phương Đông khác. Qua hàng ngàn năm phát triển và hoàn thiện dưới các triều đại: Hán, Đường,..., Minh, Thanh; pháp luật phong kiến Trung Quốc đã bộc lộ những đặc trưng cơ bản của nó. Có hai đặc trưng cơ bản, đó là:
- Luật pháp phong kiến Trung Quốc kết hợp giữa Lễ và Hình.
- Sự kết hợp giữa Đức trị với Pháp trị và hoà đồng giữa quy phạm pháp luật với quy phạm đạo đức.
Những đặc trưng này không những là điểm phân biệt rõ ràng nhất pháp luật Trung Quốc với pháp luật những nước khác; mà hơn thể nữa, nó còn phản ánh những nét đặc sắc của nền văn minh, văn hoá Trung Hoa, cũng như đời sống vật chất, tinh thần thời bấy giờ ở Trung Quốc.
* * *
B. Phần nội dung.
I. Luật pháp phong kiến Trung Quốc kết hợp giữa Lễ và Hình.
Trước khi phân tích đặc trưng này, ta cần hiểu:
- "Lễ": là nguyên tắc xử sự của con người đã được hệ thống hoá theo một chuẩn mực nhất định.
- "Hình": là hình phạt, biểu hiện cho chế tài của pháp luật.
1. Tiền đề tư tưởng.
* Vì hệ tư tưởng chính trị pháp lý Trung Quốc bị ảnh hưởng rất lớn từ học thuyết Nho giáo nên tiền đề tư tưởng của đặc trưng này chính là một số chủ trương chính trị của Nho gia.
* Xét về mặt lịch sử ta thấy, chính bản thân Khổng Tử_ người sáng lập ra Nho giáo, đã có chủ trương dùng lễ trong việc cai trị. Nhưng chủ trương chính của ông là kết hợp Lễ và Nhạc chứ không phải Lễ và Hình. Trong đó: Lễ dùng để ước thúc, Nhạc để phát triển con người theo khuôn khổ mà Lễ đã định. Sách Luận Ngữ, chương XVII, tiết 5 có chép lại, đại ý rằng Khổng Tử có ý khen học trò của mình là Tử Yển đã biết dùng Lễ và Nhạc để dạy dân, dù là ở một huyện nhỏ.(1)
Đến thời Hán, Đổng Trọng Thư xây dựng nên các khái niệm tam cương, ngũ thường thì phạm trù Lễ đã trở nên hoàn thiện. Tam cương nêu ra ba mối quan hệ: vua tôi, cha con, vợ chồng. Trong đó; tôi, con và vợ phải phục tùng vua, cha, và chồng. Như vậy, "Lễ" xác lập nguyên tắc xử sự của con người trong ba mối quan hệ xã hội cơ bản đó. Pháp luật dùng Lễ tức là pháp luật bảo vệ những nguyên tắc xử sự được quy định trong Lễ. Mà đa phần những quy định đó lại bảo vệ cho quyền lợi của giai cấp thống trị và chế độ phụ quyền. Vì thế, nhà nước Trung Quốc lấy Lễ làm cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
* Việc sử dụng Hình vốn không phải chủ trương của Nho gia. Sách Luận Ngữ, chương II, tiết 3 viết: "Tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ."(2) Tức là: nếu dùng hình phạt thì dân vì sợ bị phạt chứ không phải họ biết hổ thẹn mà tránh. Tuy nhiên, khi Lễ đã phát triển, khuôn phép ngày một khắt khe; nếu không có Hình để răn đe thì chắc chắn sẽ chẳng ai tuân theo Lễ. Điển hình là tình trạng "tiếm lễ", tức là kẻ dưới dùng lễ của người trên đã từng diễn ra vào thời Xuân Thu. Nguyên tắc của việc dùng lễ là "Đôn tông tương lễ, xưng trật nguyên tự"(3) đã được ghi trong thiên Lạc Cáo, sách Kinh Thư. Đại ý là dùng lễ phải theo phẩm trật. Nhưng có trường hợp quan của nước chư hầu lại dám dùng lễ của thiên tử(4), đó là biểu hiện của sự "tiếm lễ".
* Nói tóm lại, việc kết hợp giữa Lễ và Hình trong luật pháp phong kiến Trung Quốc có nguồn gốc từ đường lối chính trị Nho giáo. Tuy thủy tổ học thuyết Nho giáo không chủ trương dùng hình, nhưng trong quá trình xây dựng và bảo vệ pháp luật, Hình tất yếu phải được áp dụng để bảo vệ sự tồn tại của Lễ.
2. Mối quan hệ giữa Lễ Và Hình.
Trong việc thực hiện và áp dụng pháp luật phong kiến Trung Quốc, giữa Lễ và Hình có mối quan hệ biện chứng như sau:
- Lễ là yếu tố quyết định, chỉ đạo, mang tính khuôn phép của việc lập pháp, hành pháp cũng như giải thích pháp luật.
- Hình giữ vai trò cưỡng chế, thi hành. Hình pháp phong kiến Trung Quốc rất nặng nề và hà khắc.
- Lễ đã "mượn" Hình làm công cụ để duy trì sự tồn tại của mình bằng cách hợp pháp hoá và hợp lý hoá tính cưỡng chế của Hình.
3. Hệ quả.
Việc giải thích pháp luật và xét xử bị khống chế bởi nguyên tắc lễ nghĩa của Nho gia. Mà điều đó phụ thuộc rất nhiều vào cách thức luận vấn đề của người cầm cân nảy mực. Thế nên do cách luận án khác nhau mà có khi cùng một tội nhưng lại thành ra hai phán xét khác nhau, còn gọi là "tội đồng dị luận". Như vậy, cơ chế này ắt dẫn tới việc bản án phụ thuộc rất nhiều vào ý chí chủ quan của người nghị án, có khi người đó do kém hiểu biết mà phán bừa, cũng có khi cố tình luận sai để dùng Hình với người bị kết tội.Tư Mã Thiên đã chỉ ra hiện tượng đó như sau: "bọn thư lại chỉ lo bẻ cong pháp luật, khéo tìm cách hại người ta."(5)
4. Nhận xét, đánh giá.
Việc kết hợp giữa Lễ và Hình đã tạo nên một khung pháp lý vững chắc cho hệ thống pháp luật Trung Quốc. Hình bảo vệ Lễ và Lễ lại bảo vệ chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến phụ quyền. Trong đó Lễ giữ vai trò quyết định vì Lễ bảo vệ quyền lợi giai cấp thống trị và hợp lý hoá Hình, biến Hình thành công cụ bảo vệ sự tồn tại của mình. Vì vậy tất cả luật pháp từ thời Hán đến Thanh đều tuân theo một quy tắc: "Nhất chuẩn hồ lễ".
II. Sự kết hợp giữa Đức trị với Pháp trị và hoà đồng giữa quy phạm pháp luật với quy phạm đạo đức.
1. Tiền đề tư tưởng.
a) Đức trị.
Trước hết, phải hiểu rằng Đức trị là một đường lối cai trị của phái Nho gia. Phái này chủ trương cai trị bằng Đức. Tức là không những người cầm quyền phải là người có đức cao hơn dân chúng mà ông ra còn phải thi hành chính sách giáo hoá khiến cho người dân ai cũng có đức và tin theo đức.
Đây là tư tưởng chính trị cơ sở của học thuyết nho giáo. Quan điểm cai trị theo Đức trị có lẽ được hình thành từ việc: khi nghiên cứu nhà nước Trung Hoa cổ đại, đặc biệt là thời Nghiêu, Thuấn; Khổng Tử nhận thấy rằng hai ông này đều cai trị bằng Đức và đã thành công rực rỡ.
b) Pháp trị.
Pháp trị là tư tưởng chính trị quan trọng của phái Pháp gia. Một trong những thay mặt xuất sắc của Pháp gia là Thương Ưởng (390 - 338 TCN) với việc áp dụng học thuyết "Hình danh" (một nhánh của pháp gia) trong khi thực hiện Biến pháp ở nước Tần. Học thuyết này được tóm gọn ở hai điều:
- Mọi người dân bình đẳng trước pháp luật(6).
- Lấy thưởng phạt làm nguyên lý trị nước, không cần giáo dục.
Có thể thấy đường lối: 'không cần giáo dục' của pháp gia có nguồn gốc từ học thuyết "vô vi" của Lão Tử và đó là đặc trưng cơ bản để phân biệt học thuyết Pháp gia với Nho gia.
2. Mối quan hệ giữa Đức trị và Pháp trị.
- Ta thấy, Đức trị đóng vai trò là hình thức cai trị chủ chốt, theo đúng chủ trương học thuyết Nho gia. Từ thời Hán Vũ đế, nhà Hán đã bãi truất bách gia, độc tôn nho học. Tuy nhiên, thực chất, những điểm tích cực của Đức trị được vận dụng rất hạn chế. Các vua thời phong kiến rất kém tự giác tu thân, nhiều người còn sa đọa, tàn ác nên chắc chắn không thể có Đức hơn người dân được. ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status