Tiểu luận Hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu tài sản trí tuệ - pdf 13

Download Tiểu luận Hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu tài sản trí tuệ miễn phí



Trong quy định tại Điều 34 của Hiến pháp 1959, Nhà nước ta đã ghi nhận một số quyền cơ bản của công dân, trong đó có quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và khẳng định rõ: “Nhà nước giúp đỡ và khuyến khích tính sáng tạo của công dân.”. Các quan điểm nói trên đã tiếp tục được kế thừa và phát triển trong quy định của Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992.
Trong những năm 1959, 1960, một số văn bản pháp luật liên quan đến SHCN đã bắt đầu được hình thành, song chủ yếu mới chỉ dừng lại các quy định khuyến khích các hoạt động sáng kiến. Chỉ trong những năm của thập kỷ 80, pháp luật về SHTT mới thực sự có những bước tiến quan trọng. Năm 1986, Nhà nước đã ban hành Nghị định số 142/HĐBT, đây là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên điều chỉnh lĩnh vực quyền tác giả. Cũng trong thời gian này, một số văn bản pháp luật về SHCN đã được ban hành nhằm bảo hộ một số đối tượng truyền thống của quyền SHCN như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, và các sáng kiến cải tiến kỹ thuật hợp lý hóa sản xuất. Tiếp theo đó, năm 1989, Pháp lệnh Bảo hộ quyền SHCN và năm 1994, Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả cũng đã được Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh một cách toàn diện và đầy đủ các khía cạnh của việc bảo hộ quyền tác giả và quyền SHCN.
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38553/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

tuệ
2.1. Sự cần thiết của việc bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ
2.1.1. Tài sản trí tuệ
Tài sản trí tuệ được hiểu theo nghĩa rộng là kết quả của hoạt động sáng tạo trí tuệ của con người. Trong các tài liệu nghiên cứu của nước ngoài, tài sản trí tuệ được hiểu một cách cụ thể và rất rộng. Đó là bất kỳ một nội dung tri thức nào do tổ chức hay cá nhân nắm giữ, không phụ thuộc việc nó được bảo hộ bởi pháp luật hay chỉ có tính hữu ích thông thường, chỉ cần nó có giá trị đối với ai đó. Trên thế giới, nhất là ở các nước phát triển, tài sản trí tuệ đã trở thành đối tượng được tính đến của các hoạt động trong lĩnh vực kinh tế như: kế toán và kiểm toán, ngân hàng, thương mại và tài chính, quản trị nhân sự v.v. Trong các hoạt động này, tài sản trí tuệ được tiếp cận khá đa dạng, ví dụ trong Bảng cân đối tài sản không truyền thống bao gồm các giá trị của các đối tượng thuộc tài sản trí tuệ như nhân sự trình độ cao, vốn trí tuệ…
Dưới góc độ pháp lý, tài sản trí tuệ thường được hiểu hẹp hơn nhiều, kể cả trong pháp luật của các nước phát triển do nhu cầu đối với loại tài sản này và khả năng điều chỉnh pháp luật một cách thành công với nó. Cụ thể, tính hữu ích và lợi ích thu được từ tài sản trí tuệ có thể dễ dàng nhận diện, song khả năng điều chỉnh tài sản này dưới góc độ là đối tượng của quyền sở hữu là điều không phải lúc nào cũng dễ dàng trong mọi trường hợp và đối với mọi loại tài sản trí tuệ, nhất là khi thế giới chưa có được cách tiếp cận thống nhất về bản chất và các loại tài sản trí tuệ. Chính vì vậy, hầu hết các nước hiện đang điều chỉnh tài sản trí tuệ dưới góc độ là đối tượng của quyền sở hữu chỉ với quyền sở hữu trí tuệ. Nói một cách ngắn gọn, tài sản trí tuệ thường được đồng nhất với quyền sở hữu trí tuệ. Khuynh hướng này còn kéo dài do bản chất của tài sản trí tuệ là tài sản vô hình nên việc định hình được để bảo hộ là điều không dễ, trừ các quyền sở hữu trí tuệ truyền thống đã được xác định và điều chỉnh từ hàng trăm năm nay. Như vậy, việc mở rộng khái niệm tài sản trí tuệ ra ngoài các quyền sở hữu trí tuệ chưa hiện thực và khó có thể xảy ra trong tương lai gần do đòi hỏi việc nghiên cứu, thử nghiệm và kiểm nghiệm trên thực tế, nhất là ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Phù hợp với thông lệ quốc tế và phù hợp với các điều ước quốc tế về SHTT mà Việt Nam là thành viên, Quan điểm đồng nhất tài sản trí tuệ với quyền sở hữu trí tuệ đã được thể hiện rõ trong Luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam, cụ thể, tài sản trí tuệ bao gồm:
(i) Các đối tượng của quyền tác giả (gồm các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa) và các đối tượng của quyền liên quan đến quyền tác giả (gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình; chương trình phát sóng; tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá);
(ii) Các đối tượng của quyền SHCN (gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu hàng hoá/dịch vụ, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý);
(iii) Đối tượng của quyền đối với giống cây trồng (gồm giống cây trồng và vật liệu nhân giống).
2.1.2. Bản chất của tài sản trí tuệ
(i) Tài sản trí tuệ là tài sản vô hình: tài sản trí tuệ không có bản chất vật lý và chúng tồn tại dưới dạng các thông tin, tri thức chứa đựng sự hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người, do đó, tài sản trí tuệ có khả năng lan truyền và nhiều người có thể cùng độc lập chiếm giữ và sử dụng cùng một lúc.
(ii) Tài sản trí tuệ có thể xác định được về bản chất (nội dung), phạm vi (giới hạn), chức năng, công dụng và giá trị.
(iii) Tài sản trí tuệ có thể kiểm soát được: con người có thể kiểm soát và tác động đến tài sản trí tuệ thông qua các hành vi: sản xuất, sử dụng (khai thác), duy trì, phát triển, mua bán, trao đổi, cho thuê, góp vốn… nhằm những mục đích nhất định, trong đó mục đích quan trọng nhất là tạo ra giá trị (vật chất hóa) tài sản trí tuệ.
(iv) Tài sản trí tuệ có khả năng sinh lợi: khi được sử dụng (bán, chuyển giao, cho thuê, trao đổi,…), tài sản trí tuệ có khả năng đem lại cho người khai thác, sử dụng nó các lợi ích vật chất.
(v) Tài sản trí tuệ mang đặc tính sáng tạo và đổi mới: khi được tạo ra, tài sản trí tuệ phải là một đối tượng mới hay là một đối tượng đã biết nhưng được bổ sung cái mới (được đổi mới). Nói theo cách khác, mỗi một tài sản trí tuệ là một sản phẩm của hoạt động sáng tạo.
2.1.3. Quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ:
Theo tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) thì “quyền sở hữu trí tuệ” bao gồm các quyền liên quan tới các tác phẩm khoa học, nghệ thuật và văn học; chương trình biểu diễn của các nghệ sĩ, các bản ghi âm và chương trình phát thanh, truyền hình; sáng chế trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người; các phát minh khoa học; các kiểu dáng công nghiệp; các nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, các chỉ dẫn và tên thương mại; bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh và tất cả các quyền khác là kết quả của hoạt động trí tuệ trong lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học hay nghệ thuật”. Phù hợp với thông lệ quốc tế, tại Việt Nam, quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ (quyền SHTT) được xác định trong Luật Sở hữu trí tuệ như sau: “là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm: quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghệp và quyền đối với giống cây trồng”.
Quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ mang một số đặc tính sau đây:
(i) Về căn cứ xác lập: Việc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ dựa trên hai nhóm căn cứ khác nhau:
- Nhóm quyền phát sinh một cách tự nhiên: là quyền được tự động phát sinh cùng với sự ra đời của tài sản trí tuệ, nếu đáp ứng một số điều kiện nào đó mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký xác lập quyền tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các tài sản trí tuệ mà quyền sở hữu được phát sinh một cách tự nhiên bao gồm: các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình; chương trình phát sóng; tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá), quyền đối với tên thương mại, bí mật kinh doanh.
- Nhóm quyền phát sinh trên cơ sở đăng ký: là quyền chỉ được xác lập khi thực hiện thủ tục đăng ký với cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp luật. Các tài sản trí tuệ mà quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở đăng ký bao gồm sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý và giống cây trồng.
(ii) Về các hình thức sở hữu: Tài sản trí tuệ có thể thuộc sở hữu của Nhà nước, sở hữu của tập thể hay sở hữu của cá nhân và trên thực tế, phần lớn các tài sản trí tuệ thuộc sở hữu của cá nhân:
- Tài sản trí tuệ thuộc sở hữu Nhà nước: bao gồm các chỉ dẫn địa lý, tài s
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status