Khái niệm tiền lương và các yêu tố ảnh hưởng tới việc thỏa thuận điều khoản tiềng lương trong hợp đồng lao động - pdf 13

Link tải luận văn miễn phí cho ae
1. Khái niệm tiền lương? Các yếu tố ảnh hưởng tới việc thỏa thuận diều khoản tiền lương trong hợp đồng lao động.
a. Khái niệm tiền lương
Tiền lương là một phạm trù vừa mang tính kinh tế vừa mang tính pháp lý. Dưới góc độ kinh tế, tiền lương được nghiên cứu chủ yếu với tư cách là một bộ phận của chi phí sản xuất kinh doanh, là giá cả của hàng hóa sức lao động. Dưới góc độ pháp lý tiền lương, tiền lương chủ yếu được xem xét với tư cách là chế định của luật lao động là tương quan pháp lý giữa NSDLD và NLD trong lĩnh vực trả công lao động. Với tư cách là chế định của luật lao động, tiền lương bao gồm tổng thể các quy định pháp luật về nguyên tắc, chế độ, hình thức trả lương; hệ thống thang, bảng lương, chế độ phụ cấp lương, chế độ tiền thưởng; việc trả lương trong các trường hợp đặc biệt; quyền và nghĩa vụ của NLĐ, NSDLĐ Còn với tư cách là tương quan pháp lý giữa NLĐ và NSDLĐ, tiền lương thể hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mỗi bên với mục đích đảm bảo sự công bằng và bảo vệ quyền lợi của người làm công.
Vậy tiền lương là gì? Mục đích nghiên cứu lí luận về tiền lương dù xuất phát từ phương diện nào cũng cần làm rõ vấn đề này.
- Các nhà kinh tế học cổ điển ( như: Adam Smith, Stain, Simon, Proudhon ) quan niệm tiền lương không chỉ là sự bù đắp cho lao động mà còn là thu nhập của người cùng kiệt và do đó không những phải đủ để duy trì trong khi lao động mà cả trong trường hợp khi ngừng lao động. Durkheim (nhà xã hội học nổi tiếng của Pháp) coi tiền lương như quan hệ kinh tế xã hội đặc trưng cho xã hội công nghiệp hiện hiện đại. Những quan điểm này dường như nghiêng về khẳng định vị trí vai trò của tiền lương hơn là câu hỏi cho tiền lương là gì.
- Theo từ điển Tiếng Việt thì “tiền lương” là “công trả định kỳ hàng tháng, cho công nhân, viên chức” Ưu điểm của định nghĩa này là chỉ ra được đối tượng hưởng lương và chỉ một trong những đưac điểm cơ bản của tiền lương( lương trả theo định kỳ thời gian) Tuy nhiên, các tác giả này đã sử dụng khái niệm tương đồng và điều đó dẫn tới hệ quả là chưa thực sự trả lời được câu hỏi “tiền lương là gì”
- Điều 1 Công ước số 95 (1949) về bảo vệ tiền lương có quy định: “ từ “tiền lương” là “sự trả công hay thu nhập, bất luận tên gọi hay cách tính mà có thể biểu hiện bằng tiền và được ấn định bằng sự thỏa thuận giữa NSDLĐ và NLĐ, hay bằng pháp luật quốc gia, do NSDLĐ phải trả choNLĐ theo một hợp đồng thuê mướn lao động, bằng viết hay bằng miệng, cho một công việc thực hiện hãy sẽ phải thực hiện, hay cho những dịch vụ đã làm hay sẽ phải làm”. Với định nghĩa này, ILO đã đưa ra dấu hiệu cơ bản nhận biết tiền lương, bao gồm: (i)Tiền lương là sự trả công lao động; (ii)Hình thức biểu hiện tiền lương là bằng tiền mặt; (iii)Tiền lương được ấn định bằng sự bằng sự thỏa thuận của các bên hay bằng pháp luật quốc gia; (iv) Lí do mà NSDLĐ phải trả cho NLĐ. Về phương diện pháp lý, có thể thấy đây là là định nghĩa khá toàn diện về tiền lương. Pháp luật lao động của nhiều quốc gia đã vận dụng định nghĩa này một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của quốc gia mình.
Trong ba cách hiểu trên, có thể thấy cách hiểu, cách định nghĩa về “tiền lương” của tổ chức ILO là hợp lý hơn cả. Việt Nam cũng đã vận dụng linh hoạt vào điều kiên kinh tế - xã hội của nước ta. Điều 55 BLLĐ đã sửa đổi bổ sung ở nước ta quy định : “tiền lương của người lao động do hai bên thỏa thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Mức lương của người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu do nhà nước quy định”
Tóm lại, dưới góc độ pháp luật lao động, “tiền lương được hiểu là số tiền mà người sử dụng lao động phải trả cho người lao động căn cứ vào năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả công việc và điều kiện lao động, được xác định theo sự lao động, chất lượng hiệu quả công việc và điều kiện lao động, được xác định theo sự thỏa thuận hợp pháp hai bên trong hợp đồng lao động hay theo quy định của pháp luật”
Định nghĩa trên đây bao quát tiền lương với các bộ phận cấu thành cơ bản của nó, bao gồm: Lương cơ bản(lương chính), phụ cấp lương và tiền thưởng. Trong đó lương cơ bản là phần chính đủ số lượng, chất lượng lao động đạt trong điều kiện trung bình. Phụ cấp lương là khoản bổ sung cho lương cơ bản, bù đắp cho NLĐ phải làm thực hiện làm việc trong điều kiện không bình thường hay phải thực hiện các công việc yêu cầu trách nhiệm cao hơn mức bình thường. Tiền thưởng là phần trả cho những yếu tố nảy sinh trong quá trình lao động, như: tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm
Tiền lương biểu hiện ở hai khía cạnh cơ bản : tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế. Tiền lương danh là số tiền mà NSDLD trả cho hay quy định trong thang lương, bảng lương hay bất kỳ một mức nào do các bên thỏa thuận không trái pháp luật. Tiền lương thực tế biểu hiện qua số lượng hàng hóa, dịch vụ mà NLĐ có thể mua được từ tiền lương danh nghĩa phục cho cuộc sống của bản thân và gia đình. Khi giá cả sinh hoạt tăng lên, tiền lương thực tế sẽ bị giảm sút và đời sống của người hưởng lương sẽ bị ảnh hưởng. Từ đó đặt ra yêu cầu cần điều chỉnh tăng lương danh nghĩa để đảm bảo cho sức mua của nó tức là đảm bảo giá trị tiền lương thực tế.
Từ khái niệm trên có thể thấy tiền lương có những đặc điểm sau đây:
- Tiền lương là khoản tiền trả cho người lao động sống
- Tiền lương để thể hiện hình thức tiền mặt
- Tiền lương trong quan hệ lao động chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật.
Dưới góc độ kinh tế, bản chất của tiền lương là giá cả của hàng hóa sức lao động. Tiền lương thay đổi xoay quanh trục giá trị sức lao động. Dưới góc độ pháp lí, tiền lương thể hiện tương quan pháp lý giữa NSDLĐ và NLĐ. Tiền lương là khoản tiền mà NLĐ có quyền hưởng thụ khi đã thực hiện các nghĩa vụ lao động của mình trên cơ sở pháp luật và sự thỏa thuận hợp pháp giữa hai bên. Ngược lại, tiền lương chính là nghĩa vụ của NSDLĐ đối với NLĐ trong mối quan hệ này.



1t2ehqJj6viSlx6
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status