Tiểu luận Phân tích một số quy định của pháp luật về công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp 2005 - pdf 13

Download Tiểu luận Phân tích một số quy định của pháp luật về công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp 2005 miễn phí



Quy định của LDN 2005 về người thay mặt theo pháp luật của công ty hợp danh cũng có điểm khác biệt lớn so với quy định này ở các loại hình doanh nghiệp khác hoạt động theo LDN 2005. Đối với công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, LDN 2005 quy định rõ người thay mặt theo pháp luật của công ty. Với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, người thay mặt theo pháp luật của công ty là Chủ tịch Hội đồng thành viên hay Giám đốc hay Tổng giám đốc do điều lệ công ty quy định (Điều 46 LDN 2005); người thay mặt theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là Chủ tịch Hội đồng thành viên hay hay Chủ tịch công ty hay Giám đốc hay Tổng giám đốc do điều lệ công ty quy định (Khoản 5 Điều 67 LDN 2005); thay mặt theo pháp luật của công ty cổ phần là Chủ tịch Hội đồng quản trị hay Giám đốc hay tổng giám đốc do điều lệ công ty quy định (Điều 95 LDN 2005). Tuy nhiên, LDN 2005 đã không quy định ai là người thay mặt theo pháp luật của công ty hợp danh mà tại khoản 1 Điều 137 LDN 2005 chỉ quy định: “Các thành viên hợp danh có quyền thay mặt theo pháp luật” . Từ quy định này của LDN 2005, nhiều học giả đều cho rằng, tất cả các thành viên hợp danh đều là người thay mặt theo pháp luật của công ty hợp danh.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38816/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ty hợp danh là sự liên kết giữa các thương gia thể nhân hay thương nhân đơn lẻ để cùng kinh doanh dưới một tên hãng chung. Tuy nhiên, ngày nay khi đã cách xa cái thủa ban đầu đó hàng thiên niên kỷ, thì công ty hợp danh mang bản chất là sự liên kết giữa các thương nhân mà trong đó có cả thương gia thể nhân và thương gia pháp nhân, có nghĩa là thành viên của công ty hợp danh có thể là pháp nhân. Về mặt lý thuyết cho thấy pháp nhân mô phỏng vị trí pháp lý của thể nhân. Nó có tên gọi, cơ sở, quốc tịch, ý chí, sản nghiệp, trách nhiệm, có nghĩa là nó có các quyền dân sự như thể nhân trừ một số quyền đặc trưng của thể nhân như về gia đình, về chính trị... Đứng trước pháp luật, thể nhân hay pháp nhân đều được gọi là người, nhưng để phân biệt giữa chúng người ta gắn vào đó các tính từ. Sự phân biệt như vậy là cần thiết để thiết lập đời sống pháp lý khác nhau cho chúng, song sự phân biệt đó không làm cản trở tới việc tham gia vào các hoạt động kinh tế của pháp nhân.
III. Bình luận các quy định của LDN 2005 về công ty hợp danh:
1. Ưu điểm
Để khắc phục những thiếu sót của LDN năm 1999 về loại hình công ty hợp danh còn quá sơ sài, chưa đủ tầm điều chỉnh những vấn đề phát sinh và hoạt động của loại hình doanh nghiệp này, LDN năm 2005 đã sửa đổi, bổ sung và quy định mới ở một số nội dung cho phù hợp, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn
a. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khi tham gia các giao dịch, khoản 2 Điều 130 LDN năm 2005 công nhận loại hình công ty hợp danh có tư cách pháp nhân.
Theo đó, công ty hợp danh có bản chất pháp lý sau:
- Là doanh nghiệp có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung; ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn.
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty.
- Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
- Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
- Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
Khoản 2 Điều 130 LDN năm 2005 quy định “Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.” đã tạo điều kiện thuân lợi hơn rất nhiều cho các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động. Bởi lẽ, trong hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn còn một số văn bản hạn chế hoạt động đối với các doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân trong một số lĩnh vực như xây dựng và đấu thầu. Việc quy định luật này đã thể hiện sự đổi mới trong tư duy của các nhà lập pháp Việt Nam và có ý nghĩa tạo ra nhiều sự lựa chọn hơn về hình thức hoạt động cho các nhà đầu tư. Việc thừa nhận tính pháp nhân của công ty hợp danh có lợi hơn, nhằm đảm bảo cho các loại hình doanh nghiệp này có đầy đủ tư cách pháp lý khi tham gia các hoạt động giao dịch cũng như tham gia tố tụng, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế nước nhà.
b. LDN năm 2005 không còn quy định bắt buộc nhà đầu tư phải thành lập công ty hợp danh khi kinh doanh một sô ngành nghề nhất định như: kế toán và kiểm toán, thiết kế các công trình xây dựng, khám và chữa bệnh, dịch vụ pháp lý. Quy định này có ý nghĩa tạo cơ hội cho nhà đầu tư được quyền lựa chọn loại hình đầu tư để hoạt động kinh doanh.
Việc thực hiện góp vốn và cấp giấy chứng nhận phần vốn góp trong công ty hợp danh là một quy định mới trong LDN năm 2005 nhằm cụ thể hóa trách nhiệm của thành viên công ty trong trường hợp không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết góp. LDN năm 2005 cũng quy định rõ số vốn chưa góp đủ là khoản nợ của thành viên đối với công ty và việc góp chậm, không đủ số vốn cam kết là một lý do mà thành viên có thể bị khai trừ ra khỏi công ty. Đồng thời, để đảm bảo quyền lợi của thành viên, Điều 131 LDN năm 2005 cũng quy định trách nhiệm của công ty là phải cấp giấy chứng nhận góp vốn cho thành viên công ty khi họ đã góp đủ số vốn cam kết góp. Bên cạnh đó, Điều 132 LDN năm 2005 cũng quy định rõ về nguồn gốc hình thành nên tài sản của công ty. Đây cũng là một điểm mới của LDN năm 2005 so với LDN năm 1999.
c. LDN năm 2005 đưa ra những hạn chế đối với quyền hành của thành viên hợp danh
Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hay thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại; thành viên hợp danh không được quyền nhân danh cá nhân hay nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty đó để tư lợi hay phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác và thành viên hợp danh không được quyền chuyển một phần hay toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác nếu không được sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại. Việc LDN năm 2005 quy định hạn chế này nhằm đảm bảo thực hiện trách nhiệm tài sản vô hạn của thành viên hợp danh đối với công ty khi có phát sinh các rủi ro hay nghĩa vụ tài chính đối với khách hàng.
d. Bên cạnh đó, điểm đ khoản 2 Điều 134 LDN năm 2005 đã quy định rõ hơn về việc thành viên hợp danh phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán hết sô nợ còn lại của công ty nếu tài sản của công ty không đủ để trang trải số nợ của công ty.
Như vậy trách nhiệm tài sản của thành viên hợp danh chỉ được xác lập khi tài sản còn lại của công ty không đủ để thanh toán nợ, nghĩa là khi đó chủ nợ có quyền yêu cầu bất cứ thành viên hợp danh nào có trách nhiệm thanh toán số nợ còn lại của mình. Thành viên hợp danh đã thanh toán nợ cho chủ nợ có quyền yêu cầu các thành viên hợp danh khác thanh toán lại cho mình phần nợ đã thanh toán tương ứng với nhĩa vụ của từng thành viên hợp danh.
e. Kế thừa những quy định của LDN năm 1999, Điều 136 LDN năm 2005 đã quy định chi tiết hơn việc triệu tập họp Hội đồng thành viên.
Theo đó, Chủ tịch Hội đồng thành viên có thể triệu tập hợp Hội đồng thành viên khi xét thấy cần thiết hay theo yêu cầu của thành viên hợp danh. Trường hợp Chủ tịch Hội đồng thành viên không triệu tập họp theo yêu cầu của thành viên hợp danh thì thành viên đó triệu tập họp Hội đồng thành viên. Hình thức thông báo mời họp có thể bằng giấy mời, điện thoại, fax, telex hay các phương tiện điện tử khác. Thông báo mời họp phải nêu rõ mục đích, yêu cầu và nội dung họp, chương trình và địa điểm họp, tên thành viên yêu cầu triệu tập họp.
f. Điều 137 LDN năm 2005 quy định các thành viên hợp danh có quyền thay mặt theo pháp luật và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty.
Mọi hạn chế đối với thành viên hợp danh trong thực hiện công việc kinh doanh hằng ngày của công ty chỉ có hiệu lực đối với bên thứ ba khi người đó được biết về hạn chế đó. Trong điều hành hoạt động kinh doanh của công ty, thành viên hợp danh phân công nhau đảm nhiệm các chức danh quản lý và kiểm soát công ty. Khi một số hoặc...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status