Tiểu luận Lịch sử bộ luật và đối tượng điều chỉnh của luật dân sự Việt Nam - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận Lịch sử bộ luật và đối tượng điều chỉnh của luật dân sự Việt Nam



 
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu .1
I/ Lịch sử luật dân sự Việt Nam .2
II/ Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự Việt Nam 4
1. Quan hệ tài sản .5
2. Quan hệ nhân thân .12
Kết luận . 19
Tài liệu tham khảo .20
 
 
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39355/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

an hệ dân sự là những quan hệ xã hội phát sinh một cách khách quan. Chúng tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội loại người . Pháp luật dân sự là công cụ pháp lý của nhà nước thực hiện chức năng điều chỉnh các quan hệ dân sự, nó ra đời và tồn tại cùng với nhà nước và là một phạm trù lịch sử. Trong từng thời kỳ nó có thể chỉ là các quy định về dân sự giản đơn chưa thành một nghành luật độc lập nhưng đã có vị trí , vai trò tích cực trong việc điều chỉnh , bảo vệ quan hệ sở hữu, quan hệ tài sản tồn tại khách quan trong xã hội.
1) Quan hệ tài sản :
Nhóm quan hệ tài sản là đối tượng điều chỉnh chủ yếu của luật dân sự .Quan hệ tài sản là quan hệ giữa người với người thông qua một tài sản dưới dạng tư liệu sản xuất hay tư liệu tiêu dùng hay giao dịch chuyển quyền chiếm hữu ,sử dụng tài sản đó trong quá trình sản xuất ,phân phối lưu thông .Quan hệ tài sản bao giờ cũng gắn liền với một tài sản và khái niệm quan hệ tài sản có liên quan chặt chẽ với khái niệm tài sản.Trong luật dân sự,tài sản không chỉ bao gồm các đồ vật nằm trong sở hữu ,trong sự quản lí hay sử dụng của một người nào đó mà còn bao gồm cả quyền yêu cầu mang nội dung tài sản,như quyền yêu cầu trả nợ chuyển giao đồ vật đã bán ... các quan hệ tài sản bao giờ cũng phát sinh và tồn tại trong mối liên hệ với tài sản nhất định hay với việc chuyển giao các quyền lợi về tài sản từ người này sang người kia.
Tài sản và quyền sở hữu tài sản là một trong những tiền đề vật chất quan trọng cho sự phát triển của kinh tế xã hội .Các quan hệ tài sản và sở hữu được điều chỉnh bằng nhiều văn bản pháp luật thuộc các nghành luật khác nhau : Hiến pháp ,luật đất đai ,luật dân sự ...Trong luật dân sự, các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài sản và sở hữu giữ vị trí trung tâm .Tuy nhiên ,ngoài nghĩa là đối tượng ( hay khách thể của quyền sở hữu ).Tiền đề vật chất quan trọng làm phát sinh các quan hệ tài sản trng giao lưu dân sự ( hợp đồng, thừa kế,... ).Khái niệm tài sản được xác định rõ tại điều 172 BLDS : “ tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền về tài sản ”.Như vậy , khái niệm tài sản theo quy định của bộ luật dân sự khái quát và mở rộng phù hợp với nền kinh tế thị trường . Đối với mỗi loại tài sản , điều kiện để cho chúng trở thành đối tượng của quyền sở hữu và là cơ sở làm phát sinh quan hệ tài sản trong giao lưu dân sự cũng rất khác nhau. vật có thực là những vật nhìn thấy ,sờ thấy được (trong dân luật la mã gọi là tài sản hữu hình ), chúng có sẵn trong tự nhiên hay do con người sáng tạo ra, vật đó phải có ích và con người có thể chiếm giữ được làm của mình. Tiền , giấy tờ trị giá được bằng tiền ( séc, tín phiếu , kỳ phiếu,công trái ,... ) cũng là một loại tài sản có giá trị trao đổi, lưu thông kinh tế . Khi chủ sở hữu thực hiện các quyền năng pháp lý đối với loại tài sản này phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của nhà nước. Các quyền tài sản ( sản phẩm sáng tạo trí tuệ, quyền đòi nợ ... )cũng trị giá được bằng tiền và được phép chuyển dịch trong giao lưu dân sự .
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường ,khái niệm tài sản trong giao lưu dân sự, kinh tế được mở rộng hơn. Để xây dựng chế độ pháp lý đối với mỗi loại tài sản nhằm hướng dẫn hành vị xử sự của các chủ thể tham gia quan hệ tài sản , luật dân sự phân loại tài sản theo thông lệ quốc tế thành bất động sản và động sản. Ở các nước khác nhau , phạm vị tài sản đưa vào giao lưu dân sự được pháp luật quy định khác nhau phụ thuộc vào quan niệm của nhà nước đó về tài sản và quyền sở hữu . Các tài sản được đưa và giao lưu dân sự phải luôn luôn thuộc về chủ sở hữu nào đó ( cá nhân, tổ chức... )
Quan hệ tài sản là quan hệ giữa con người với con người về một tài sản nào đó ,chứ không phải là quan hệ giữa con người với đồ vật.Các quan hệ tài sản rất đa dạng ,phong phú và các chủ thể tham gia vào các quan hệ này cũng rất khác nhau ( có thể là cá nhân hay tổ chức ) nhằm thoả mãn nhu cầu sinh hoạt,tiêu dùng , sản xuất – kinh doanh ... Trong nhiều trường hợp chủ thể tham gia vào quan hệ tài sản còn chính là nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với tư cách là thay mặt chủ sở hữu đối với các tài sản thuộc sở hữu toàn dân (điều 206 bộ luật dân sự ).
Các quan hệ tài sản là những quan hệ kinh tế cụ thể được phát sinh giữa người với người trong quá trình sản xuất ,phân phối ,lưu thông tư liệu sản xuất ,tư liệu tiêu dùng và cung ứng dịch vụ trong xã hội . Điều đó có nghĩa là , các quan hệ tài sản có liên quan trực tiếp với quan hệ sản xuất và phù hợp với cách sản xuất thuộc hạ tầng cơ sở của xã hội. Bên cạnh đó cũng có ý kiến cho rằng , các quan hệ tài sản nói chung không liên quan gì tới quan hệ sản xuất.
Mối liên hệ qua lại giữa các quan hệ tài sản và quan hệ sản xuất đặc biệt quan trọng và rất phức tạp . Vấn đề này C.MÁC viết “...trong sản xuất xã hội của cuộc sống ,con người tham vào các quan hệ nhất định và cần thiết không phụ thuộc vào ý chí con người –các quan hệ sản xuất mà chúng phù hợp với từng giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất nhất định ...”. Suy ra các quan hệ sản xuất xã hội là những quan hệ mang tính khách quan không phụ thuộc vào ý chí con người . Tính độc lập của các quan hệ sản xuất đối với ý chí con người được đặc trưng ở 3 yếu tố .
Thứ nhất, khi được sinh ra con người đã đứng trước một giai đoan phát triển của quan hệ sản xuất nhất định, phù hợp với mức độ phát triển của lực lượng sản xuất . Tất nhiên con người đó phải tham gianvào một hệ thống các mối quan hệ sản xuất đang tồn tại và không thể thay đổi hệ thống đó theo ý mình .
Thứ hai, do đặc điểm xã hội của sản xuất và phân công lao động, để đảm bảo cuộc sống và lao động ,con người phải tham gia vào các quan hệ giữa họ với nhau ,phải trao đổi kết quả lao động của mình và chính điều đó đã thu hút con người vào hệ thống các mối quan hệ sản xuất – xã hội đang tồn tại .
Thứ ba, sự tồn tại độc lập của các quan hệ sản xuất xã hội đối với ý chí con người còn được thể hiện chỗ, khi tham gia vào các quan hệ với người khác , trao đổi thành quả lao động, con người không ý thức đầy đủ được tất cả sự đa dạng và phức tạp của các quan hệ sản xuất xã hội mà họ tham gia. Tuy nhiên trong khuôn khổ của sự cần thiết đó con người đã thể hiện ý chí ,tức là hành động có suy nghĩ và có ý thức để đạt được những mục đích đặt ra và cuối cùng, quan hệ sản xuất là kết quả của hoạt động có ý thức của con người trong quá trình sản xuất ,phân phối, trao đổi và tiêu dùng các tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Khi tham gia vào các quan hệ với nhau bằng cách đó con người bị thu hút vào hệ thống các quan hệ sản xuất – xã hội đang tồn tại . Nhận xét về điểm này Lê nin v...

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status