Tiểu luận Địa vị pháp lý của nguời bào chữa và hướng nhằm hoàn thiện pháp luật nâng cao hiệu quả việc tham gia tố tụng của người bào chữa - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận Địa vị pháp lý của nguời bào chữa và hướng nhằm hoàn thiện pháp luật nâng cao hiệu quả việc tham gia tố tụng của người bào chữa



Mục lục
I. Lời mở đầu 1
II. Nội dung chính 1
1. Khái niệm người bào chữa 1
2. Phân loại 2
3. Trường hợp không được bào chữa 3
4. Lựa chọn và thay đổi người bào chữa 4
5. Thời điểm tham gia của người bào chữa 5
6. Địa vị pháp lý của người bào chữa 6
a. Quyền của người bào chữa. 6
b. Nghĩa vụ của người bào chữa 9
7. Hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về chế định người bào chữa. 10
Thứ nhất: Quy định về người bào chữa là bào chữa viên nhân dân theo Điều 58 BLTTHS 2003. 10
Thứ hai: Về thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa. 11
Thứ ba: Về sự lựa chọn và thay đổi người bào chữa 12
Thứ tư: Về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa 13
III. Thay lời kết 16
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39438/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ những người này về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
2. Phân loại
Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 BLTTHS 2003, người bào chữa có thể là luật sư; người thay mặt hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.
- Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. Hoạt động bào chữa của luật sư có tính chất chuyên nghiệp.
- Người thay mặt hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Người thay mặt hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cha mẹ hay người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hay người có nhược điểm về thể chất hay tâm thần.
- Bào chữa viên nhân dân
Bào chữa viên nhân dân có thể là người được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.
Khi tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa, luật sư, thay mặt hợp pháp của bị can, bị cáo, bào chữa viên nhân dân đều có các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định chung cho người bào chữa.
Bên cạnh đó người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng có quyền tự mình bào chữa theo Điều 48, 49 và 50 BLTTHS 2003 nếu họ có khả năng làm việc đó như có kiến thức, có sự hiểu biết nhất định về pháp luật, biết sử dụng các quyền mà pháp luật cho phép để bác bỏ sự buộc tội hay làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bản thân.
3. Trường hợp không được bào chữa
Bên cạnh đó pháp luật còn quy định trường hợp những người không được bào chữa. Theo quy định tại khoản 2 Điều 56 BLTTHS 2003, những người sau đây không được bào chữa:
- Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích của người đã hay đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó.
Người đã tiến hành tố tụng có trách nhiệm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ cả về mặt buộc tội và gỡ tội. Người bào chữa tham gia tố tụng để gỡ tội cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của những người này. Người đã tiến hành tố tụng không được là người bào chữa trong cùng một vụ án và họ không thể đồng thời thực hiện tốt trách nhiệm chứng minh vụ án và nghĩa vụ bào chữa.
Người thân thích của những người đã hay đang tiến hành tố tụng không được là người bào chữa trong vụ án đó vì việc họ tham gia bào chữa trong vụ án có thể sẽ gây ảnh hưởng đến sự khách quan trong việc giải quyết vụ án của người tiến hành tố tụng là người thân thích của họ.
- Người tham gia trong vụ án đó với tư cách người làm chứng, người giám định, người phiên dịch.
Những người này phải thực hiện nghĩa vụ một cách trung thực, không chỉ theo hướng gỡ tội cho bị can, bị cáo. Vì vậy, họ không thể đồng thời là người bào chữa trong cùng một vụ án.
Một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Trong thời hạn 3 ngày , kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan tiến hành điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải xem xét, cấp giấy chứng nhận để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối phải nên rõ lý do.
Đối với trường hợp tạm giữ người trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan tiến hành điều tra phải xem xét, cấp giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do.
4. Lựa chọn và thay đổi người bào chữa
Người bào chữa do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hay người thay mặt hợp pháp của họ lựa chọn. Nếu bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất tâm thần thì họ và thay mặt hợp pháp của họ đều có quyền lựa chọn người bào chữa. Nếu bị can, bị cáo đã thành niên, không có nhược điểm về thể chất và tâm thần thì chỉ có họ mới có quyền lựa chọn người bào chữa. Nếu người thân thích hay người khác lựa chọn người bào chữa cho họ thì Tòa án chỉ cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa đó nếu đã có sự ủy quyền của bị can, bị cáo hay nếu không có sự ủy quyền thì phải được sự đồng ý của bị can, bị cáo đối với người bào chữa đã được lựa chọn.
Trong những trường hợp sau đây, nếu bị can, bị cáo hay người thay mặt hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hay Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoăc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình:
- Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại BLHS.
- Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hay thể chất.
Trong các trường hợp này, phải thông báo ngay cho bị can, bị cáo và người thay mặt hợp pháp của họ biết, những người này vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hay từ chối người bào chữa nhưng phải nêu rõ lý do.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc VN, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.
Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang hay đang bị truy nã; bắt người trong trường hợp khẩn cấp thì người bào chữa tham gia từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
Sự tham gia tố tụng của người bào chữa là rất cần thiết, bằng kinh nghiệm nghề nghiệp và sự hiểu biết của mình, người bào chữa tham gia vào quá trình giải quyết vụ án để giúp bảo vệ lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Qua đó sự tham gia của người bào chữa cũng góp phần vào việc xác định sự thật của vụ án được đúng đắn, không để bị can, bị cáo bị buộc tội oan sai.
5. Thời điểm tham gia của người bào chữa
Trước hết, Bộ luật tố tụng hình sự quy định cho người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can là phù hợp với điều kiện và tình hình kinh tế, chính trị và xã hội c
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status