Luật Doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng thời gian qua - pdf 15

Download miễn phí Đề tài Luật Doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng thời gian qua



Đối với ngành nghề phải có giấy phép KD hiện nay có đến 300 văn bản khác nhau quy định, nội dung chồng chéo, trùng lặp mặc dù ngày 3/2/2000 thủ tướng chính phủ đã ra quyết định 19/2000/QĐ-TTG bãi bỏ 84 loại giấy phép trái quy định luật DN và gần đây tại nghị định 30/2000/NĐ-CP đã bãi bỏ tiếp 61 giấy phép.Song các loại giấy phép này còn tồn tại khá nhiều, cùng một nghành nghề, sản phẩm nhưng được quy định ở nhiều văn bản khác nhau. Điển hình như việc quy định về KD chất nổ đang tồn tại 3 văn bản: Nghị định số 27/CP/1995 về quản lý, cung ứng, sử dụng chất nổ công nghiệp; nghị định 47/CP/1996 quản lý vũ khí, nhiên liệu nổ và công cụ hỗ trợ; nghị định 11/1999/ND-CP về hàng hoá cấm lứu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện, dịch vụ hạn chế KD, KD có điều kiện.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

trước mất chúng ta cần có chính sách ưu đãi đói với đầu tư nước ngoài,nhầm thu hút lượng vốn lớn cho quá trình CNH,HĐH đất nước.Song chúng ta phải luôn nhạn thức rõ ràng quan điểm của đảng và nhà nước về quá trình CNH,HĐH đã được đề ra trong đại hội 8”Dựa vào nguồn nội lực là chính,nguồn lực bên ngoài là quan trọng”.Do vậy chúng ta quan tâm ,khuyến khích đầu tư nước ngoài là chính sách hoàn toàn đúng đấn,song đồng thời và quan trọng hơn là phải phát huy tới mức tối đa nguồn lực trong nước.
Hơn nữa chúng ta đều biết các mối quan hệ kinh tế xã hội, thay mặt cho cơ sở hạ tầng luôn vận động theo quy luật khách quan,do vậy việc dùng các nhân tố thượng tầng để kìm hãm nó,cũng đồng nghĩa với việc đi ngược lại với quy luật phát triển của xã hội.Mà thực tế,đã hình thành và tồn tại các công ty TNHH 1thành viên,dưới hình thức vỏ bọc cty TNHH 2 thành viên, trong đó 1thành viên là chủ sở hữu, còn thành viên kia chỉ có ý nghĩa trong việc hợp thức hoá(hình thức) loại hình doanh nghiệp này.
2) Về một số quy định trong công ty Hợp Danh :
-công ty hợp danh là 1 loại hình doanh nghiệp mới, lần đầu tiên được đưa vào nước ta,cùng với công ty TNHH 1 thành viên , nó đã phần nào đáp ứng được khả năng và yêu cầu mà các nhà đầu tư đặt ra đối với loại hình công ty,tạo ra một kênh huy động vốn nguồn lực trí tuệ cho quá trình đầu tư, sản xuất.song cho đến nay ,sau 6 tháng thực hiện luật doanh nghiệp mới,vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm trái ngược không đồng nhất ,thậm chí trái ngược nhau về một số quy định trong cty Hợp Danh.
Khái niệm cty hợp danh được quy định tại điều 95”cty hợp danh là doanh nghiệp trong đó phải có ít nhất hai thành viên hợp danh ,ngoài các thành viên hợp danh có thể có các thành viên góp vốn”.
Như vậy trong công ty HD ,phải có ít nhất 2 thành viên HD ,thành viên hợp danh là cá nhân có trình độ chuyên môn, có uy tín nghề nghiệp , và cũng giống như chủ sở hữuDNTN, thành viên HD phải chịu trách nhiệm vô hạn về công nợ của công ty.còn thành viên góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm trên phần vốn góp của mình .
Từ đặc trưng đó ,có ý kiến cho rằng , cty hợp danh chỉ cần 1 thành viên hợp danh và 1 thành viên góp vốnlà đủ độ tin cậy đối với khách hàng .về mặt lý luận quan điểm đó hoàn toàn phù hợp,trong xã hội không phải ai cũng có nhu cầu chia sẻ rủi do đối với người khác ,bởi điều đó cũng đồng nghĩa với vệc anh ta phải chia sẻ quyền lợi của bản thân,điều mà anh ta không bao giờ muốn. Đặc biệt với công ty HD,chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp.Một người có chuyên môn cao chắc chắn sẽ không an tâm khi phải kết hợp những người khác có trình độ chuyên môn thấp hơn mình bởi uy tín của anh ta có thể bị huỷ hại bất cứ lúc nào.Hơn nữa trong quá trình hoạt động trước mỗi vấn đề anh ta phải có nghĩa vụ bàn bạc và biểu quyết đối với những người khác có lá phiếu ngang anh ta . Hôn nữa quan điểm này cũng đã được chứng thực trong luật của nhiều nước trên thế giới.Theo điều 1077 của bộ luật thương mại Thái Lan quy định :”Cty HD hữu hạn là một loại công ty hợp danh mà ở đó:
một trong nhiều thành viên có trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn mà họ cam kết sẽ đóng góp vào công ty hợp danh
một trong nhiều thành viên cùng nhau có trách nhiệm vô hạn đối với tất cả nghĩa vụ của cty HD .
điều 1 cty hợp danh của Mỹ cũng quy định :”cty hợp danh hữu hạn là cty được thành lập bởi hai người trở lên , có từ 1 thành viên đầy đủ trở lên, và từ 1 thành viên hữu hạn trở lên”.
Tuy nhiên có một điều chắc rằng,các nhà soạn thảo luật doanh nghiệp,không phải không biết sự tồn tại của loại hình công ty HD như quy định trong luật của 1 số nước(Mỹ,Thái Lan);điều duy nhất có thể giải thích cho sự khác biệt này là xuất phát từ chính những đậc trưng của các mối quan hệ kinh tế xã hội (trong giai đoạn hiện tại của đất nước).
Nước ta do mới chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập chung(quan liêu bao cấp) song nền kinh tế thị thị trường,thành phần kinh tế tư nhân vừa được cởi trói,lên yếu cả về trình độ,cũng như năng lực quản lý,trong khi tiềm lực kinh tế chưa đủ mạnh để đương đầu với những rủi ro lớn của loại hình doanh nghiệp mới mẻ này,hơn nữa với bản tính cộng đồng của người A ĐÔNG họ luôn muốn chia sẻ quyền lợi ,sự e sợ với những người xung quanh mình.Điều này sẽ giúp họ tự tin hơn (tham gia kín) để tránh được cả TS uy tín và (có thể cả trình độ ) chuyên môn của mình vào những các(nghành nghề lĩnh vực) mang tính rủi ro cao.
Về công ty HD còn một vấn đề nữa mà chúng ta quan tâm,từ quy định ở khoản 2 điều 97 luật DN ”các thành viên HD có quyền ngang nhau khi quyết định các vấn đề của công ty”,nhiều nhà kinh doanh không đồng tình với quy định trên và cho rằng:Quy ssịnh như vậy khong phù hợp với quy tắc chung của các loại hình công ty,theo những người này,khi nhà đầu tư bỏ vốn vào kinh doanh,thì ai có nhiều vốn hơn,người đó có quyền cao hơn.Nguyên tắc này đã được cụ thể hoátrong cty trách nhiệm hữu hạn,cty cổ phần âu đó cũng là lẽ thường tình, bởi nhà đầu tư bỏ vốn nhiều hơn vào cty, điều đó cũng có nghĩa là rủi ro mà họ phải gánh chịu cũng nhiều hơn.Đặc biệt trong cty HD khi mà tài sản của cty không đủ thanh toán các khoản nợ ,thì các thành viên HD phải liên đói chịu trách nhiệm và thông thường khoản nợ được phân bổ theo tỷ lệ vốn góp.Như vậy rỏ ràng những thành viên có đa số vốn trong cty phải chịu rủi ro lớn hơn,trong khi họ chỉ có quyền biểu quyết như những người khác.
Tuy nhiên,chúng ta phải nhớ rằng cty HD là một loại hình cty đối nhân,bản chất của nó khác với cty TNHH ,cty CP là những cty đối vốn .Trong cty đối nhân thì điều quan trọng không phải là giá trị vốn góp mà là nhân thân của chính người góp vốn.Các thành viên hợp danh trong cty thông thường là bạn bè hay đồng nghiệp có mối quan hệ gần gũi và hiểu biết rất rõ về nhau,khi đã chấp nhận cùng thành lập cty thì đương nhiên họ đã coi nhau như những người thân trong gia đình trách nhiệm vô hạn đối với công nợ của cty là sợi dây vô hình gắn kết họ với công ty mỗi người trong số họ đều tự nhận thấy mình có trách nhiệm với cty ,bởi điều đó cũng có nghĩa là họ có trách nhiệm đói với chính toàn bộ tài sản của mình.Do đó vấn đề ai có quyền quyết định cao hơn ít được đặt ra ở đây ,nếu có đặt ra thì nó cũng căn cứ vào uy tín ,trình độ của bản thân mỗi người trong cty.
Hơn nữa, như chúng ta đã biết,cty HD là loại hình cty đặc thù ,nó được áp dụng vào một số loại hình công ty đặc thù,nó được áp dụng vào một số loại hình dịch vụ đặc biệt trong nền kinh tế thị trường ,những dịch vụ mà người tiêu dùng không thể kiểm tra được chất lượng cung ứng trước khi sử dụng,nhưng lại có ảnh hưởng đến sức khoẻ ,tính mạng TS của người tiêu dùng ngay sau khi sử dụng như dịch vụ pháp lý dịch vụ chữa bệnh ,dịch vụ kiểm toán…(được quy định tại K2 Đ6 NĐ03/2000/ND_CP)
Nó...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status