Chế biến các phụ phẩm giết mổ - pdf 15

Download miễn phí Đề tài Chế biến các phụ phẩm giết mổ



MỤC LỤC
 
A. TỔNG QUAN 3
I. Lịch sử phát triển 3
II. Các hệ thống chế biến phụ phẩm giết mổ 5
III. Vấn đề an toàn vệ sinh dịch bệnh trong công nghiệp chế biến phụ phẩm giết mổ 10
IV. Vai trò của ngành công nghiệp chế biến phụ phẩm giết mổ 14
 
B. HỆ THỐNG CÁC SẢN PHẨM CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN PHỤ PHẨM 24
I. Các sản phẩm chế biến từ phụ phẩm dùng cho người 24
II. Các sản phẩm chế biến từ phụ phẩm dùng trong dinh dưỡng động vật nhai
lại 32
III. Các sản phẩm chế biến từ phụ phẩm dùng trong dinh dưỡng gia cầm 39
IV. Các sản phẩm chế biến từ phụ phẩm dùng trong dinh dưỡng cho lợn 43
V. Các sản phẩm chế biến từ phụ phẩm dùng trong dinh dưỡng cho sinh vật
cảnh 51
VI. Các sản phẩm chế biến từ phụ phẩm dùng trong dinh dưỡng cho thủy sản 63
VII. Sử dụng phụ phẩm động vật trong công nghiệp và tạo năng lượng 68
 
C. CÁC VẤN ĐỀ VỀ MÔI TRƯỜNG CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN PHỤ PHẨM 81
 
D. CÁC NGHIÊN CỨU TRONG TƯƠNG LAI CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN PHỤ PHẨM 94
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

t số sản phẩm bột thịt cừu sản xuất trong nước; tuy nhiên, rất nhiều thức ăn từ thịt cừu dùng trong thức ăn sinh vật cảnh có nguồn gốc từ ngành công nghiệp sản xuất và chế biến thịt cừu của Australia và New Zealand. Hầu hết các sản phẩm bột thịt cừu này được chế biến bằng quy trình chế biến phụ phẩm giết mổ “nhiệt độ thấp”. Về mặt lý thuyết, chất lượng thức ăn có thể tốt hơn do các phân hủy gây ra bởi nhiệt đã được giảm thiểu. Tuy nhiên, vẫn chưa có số liệu tin cậy để chứng minh hay bác bỏ luận điểm này. Bột thịt cừu là sản phẩm rất đặc trưng cho loài nhưng rất ít số liệu trong các tài liệu đã xuất bản cho biết thành phần của sản phẩm. Theo phân tích, bột thịt cừu phản ánh thành phần dinh dưỡng bột thịt (xương). Tương tự, theo báo cáo thì chất lượng protein của bột thịt cừu là tương đương với bột thịt xương và bằng khoảng 75% bột phụ phẩm gia cầm (Johnson và Parsons, 1997; Johnson và cộng sự., 1998). Theo nghiên cứu của Johnson và cộng sự. (1998), tỷ lệ tiêu hóa ở hồi tràng của các axít amin không thay thế (lysine và threonine) và các a xít amin chứa lưu huỳnh có thể thay thế (cystine) là rất thấp trong các khẩu phần có bột thịt cừu. Điều này có thể là do bột thịt cừu bị lẫn tạp rất nhiều lông. Lông cừu chứa nhiều a xít amin có lưu huỳnh như cystine nhưng tính khả dụng dinh dưỡng của nó thấp.
Tính khả dụng thấp này của cystein, chất tiền thân của taurine, có thể giải thích được nguyên nhân của các trường hợp mắc bệnh giãn nở cơ tim liên quan đến taurine ở một số giống chó nhất định khi được nuôi bằng thức ăn làm từ bột thịt cừu và gạo (Fascetti và cộng sự., 2003). Ảnh hưởng của bột thịt cừu trong các khẩu phần cho chó hay mèo đến tính ngon miệng, thời gian bảo quản và biểu hiện bề ngoài chưa được đề cập trong cơ sở dữ liệu chung (literature). Thịt cừu không được coi là loại thức ăn hấp dẫn nhất trong số các loại thịt vì mùi “mỡ cừu” của nó. Mèo không thích bột thịt cừu bằng các loại bột thịt khác. Những mối quan ngại về sự ôi thiu và thời gian bảo quản ngắn của các thức ăn làm từ thịt cừu có thể là do một quá trình dài bắt đầu từ “sâu phía dưới” và (hoặc) các chất tiền ôxy hóa vốn có ở thịt cừu chế biến từ phụ phẩm giết mổ. Hơn nữa, việc sử dụng quá nhiều thịt cừu có thể dẫn đến sản phẩm thức ăn có màu xám. Nếu thức ăn chứa một lượng đáng kể lông cừu tạp nhiễm thì khách hàng sẽ phàn nàn, đặc biệt đối với những sản phẩm nướng như các loại bánh quy và những món ăn dùng trong việc điều trị bệnh. Các loại bột protein từ (phụ phẩm) gia cầm: Những loại bột protein từ gia cầm là nguồn protein chất lượng cao, thông dụng được sử dụng trong thức ăn cho sinh vật cảnh. Mỗi năm ngành công nghiệp thức ăn sinh vật cảnh tiêu thụ khoảng 23% tổng lượng protein được sản xuất từ gia cầm
(Pearl, 2003). Tuy nhiên, việc đưa ra một tuyên bố chung cho loại nguyên liệu thức ăn này chỉ dừng ở đó. Do một số quy tắc không thống nhất liên quan đến thuật ngữ dùng cho nguyên liệu thức ăn, nền tảng khách hàng mua thức ăn sinh vật cảnh đang phát triển, những áp lực từ bên trong ngành gia cầm nên một loạt tên gọi và định nghĩa phân loại thức ăn protein gia cầm đã xuất hiện. Ban đầu, các sản phẩm protein gia cầm chế biến công nghiệp được AAFCO định nghĩa rất khác so với các loại bột thịt. Điều này đã dẫn đến những tranh cãi trong ngành công nghiệp thức ăn sinh vật cảnh và gây ra sự nhầm lẫn và mất phương hướng cho người tiêu dùng. Theo định nghĩa, thức ăn từ phế phụ phẩm gia cầm khác với thức ăn từ thịt gia cầm chỉ bởi việc điền thêm mấy từ “đầu, chân và ruột” (AAFCO, 2006). Hơn nữa, chúng có thể đượcdán nhãn cụ thể tùy theo “loại” của chúng và rất nhiều nhà chế biến đã làm điều đó. Do đó, có rất nhiều sản phẩm tồn tại trên thị trường dưới cùng vỏ bọc này: bột phụ phẩm gia cầm, bột phụ phẩm gà, bột thịt gà, bột phụ phẩm gà tây và bột thịt gà tây. Chưa có loại sản phẩm từ thịt ngỗnghay vịt nào được phát triển tính đến thời điểm này. Việc phân cấp chất lượng cho các sản phẩmtừ gia cầm hiện nay cũng tạo ra thêm những sự nhầm lẫn. Bột phụ phẩm gia cầm ở “cấp độ thứcăn chăn nuôi” hiếm khi được sử dụng trong thức ăn sinh vật cảnh vì chứa hàm lượng khoángtổng số cao và proteinthấp. Bột phụ phẩm gia cầm ở cấp độ thức ăn cho sinh vật cảnh tiêu chuẩn có hàm lượng khoáng tổng số <14% và các loại bột thịt gia cầm và (hoặc) bột phụ phẩm gia cầm có khoáng tổng số thấp thường chứa hàm lượng khoáng tổng số <11% vật chất khô. Loại thức ăn có chứa khoáng tổng số <11% hiện nay cũng có nhưng với số lượng rất hạn chế, thường có giá bán rất cao và thường được dùng trong các loại thức ăn cho mèo có hàm lượng khoáng thấp. Một nhánh sản phẩm nhỏ nữa đã được một số khách hàng yêu cầu là những loại bột protein từ thịt gia cầm được bảo quản tránh sự ôxy hóa bằng các hợp chất tự nhiên (hệ thống chống ôxy hóa tự nhiên) thay vì các chất chống ôxy hóa nhân tạo truyền thống.
Trong vô số tên gọi, cấp độ và sự suy diễn đề cập hay không đề cập đến chất lượng này, chỉ có rất ít những so sánh trực tiếp giữa “bột” và “bột phụ phẩm” được nêu trong cơ sở dữ liệu chung. Trong số các nghiên cứu có đề cập đến, các kết quả thường không thống nhất. Ví dụ Bednar và cộng sự. (2000) cho biết tỷ lệ tiêu hóa protein của bột thịt gia cầm tốt hơn so với bột phụ phẩm gia cầm. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu trên gà, chất lượng protein của bột thịt gà đạt cấp thức ăn cho sinh vật cảnh cũng không khác so với chất lượng protein của bột phụ phẩm gà (Aldrich và Daristotle, 1998). Từ báo cáo này, các số liệu phân tích của từng bộ phận cơ thể cho thấy chất lượng protein của chân, xương, sụn thấp hơn chất lượng của các phần khác có trong bột phụ phẩm gia cầm chế biến công nghiệp. Điều này dường như không liên quan đến hàm lượng khoáng tổng số (Johnson và cộng sự., 1998; Johnson và Parsons, 1997; Yamka và cộng sự., 2003) và có thể cho thấy bất kể là có hay không sự kiểm tra phân hạng “phụ phẩm” thì số lượng sụn vàmô liên kết vẫn là những yếu tố có ảnh hưởng lớn hơn đến chất lượng protein. Thêm vào đó, protein càng được xử lý trong quá trình chế biến phụ phẩm nhiều bao nhiêu thì chất lượng càng bị giảm đi bấy nhiêu (Wang, 1997). Điều tệ hại hơn nữa là thành phần dinh dưỡng của các thức ăn protein gia cầm không ổn định mà biến động rất lớn (Locatelli và Hoehler, 2003). Khống chế sự biến động này là điều mà các công ty sản xuất thức ăn sinh vật cảnh cần thực hiện một cách tích cực để đảm bảo cho sản phẩm có sự ổn định về chất lượng. Phần lớn các công ty quản lý sự biến động này bằng cách thiết lập các mối quan hệ chặt chẽ với các nhà cung cấp bột gia cầm đã lựa chọn.
Nhìn chung, các thức ăn protein từ gia cầm được chó và mèo sử dụng nhiều và chúng là nguyên liệu cung cấp protein lớn nhất trong thức ăn cho các sinh vật cảnh ngoại nh
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status