Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần á Châu Hà Nội - pdf 18

Download miễn phí Luận văn Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần á Châu Hà Nội



Ngân hàng TMCP Á Châu (Tên giao dịch quốc tế là Asia Commercial Bank - viết tắt là ACB) được thành lập ngày 13 tháng 5 năm 1993 và bắt đầu hoạt động kinh doanh từ 4 tháng 6 năm 1993 theo Giấy phép hoạt động số 0032/NH-GP ngày 24 tháng 4 năm 1993. Ngân hàng TMCP á Châu là một trong những Ngân hàng TMCP được thành lập mới sau khi hai Pháp lệnh Ngân hàng của Việt Nam ra đời. Hội sở chính của Ngân hàng TMCP á Châu được đặt tại 442 - Nguyễn Thị Minh Khai - Quận 3 - TP Hồ Chí Minh.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

cáo tổng kết năm 1996, 1997, quí I-1998 - Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội
Nói chung, trong năm các 1996, 1997 và quý I năm 1998, nguồn vốn huy động của ngân hàng được hình thành từ các nguồn vốn sau đây:
- Tiền gửi của khách hàng
- Tiền gửi tiết kiệm
- Tiền gửi thanh toán của cá nhân và các tổ chức kinh tế
- Tiền quản lý và giữ hộ
Qua số liệu thống kê ở bảng 2, nguồn vốn huy động của ngân hàng qua các năm chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm: năm 1996 tổng nguồn vốn huy động là 116.577 triệu đồng, trong đó tiền gửi tiết kiệm là 99.533,7 triệu đồng chiếm 85,38%. Năm 1997, tổng số vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm là 96.440,9 triệu đồng giảm 3.092,8 triệu đồng so với năm 1996, chiếm 78,56% tổng nguồn vốn huy động năm 1997. Quí I năm 1998 là 107.117,1 triệu đồng tăng 10.672,2 triệu đồng so với năm 1997 và tăng 7.584,1 triệu đồng so với năm 1996, chiếm 88,69% tổng nguồn vốn huy động quí I năm 1998. Tiền gửi tiết kiệm trong năm 1997 thấp hơn so với năm 1996 là do trong những tháng cuối năm có biến động về giá ngoại tệ và giá vàng nên dân chúng đã rút tiền tiết kiệm để mua vàng và USD để tự bảo toàn vốn. Đến cuối quí I - 1998, nguồn tiền tiết kiệm tăng 10.672,2 triệu đồng so với cuối năm 1997, nghĩa là tăng 8,7% và tăng 6,5% so với năm 1996.
Tiền gửi tiết kiệm được hình thành từ hai nguồn: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn; số liệu được thống kê qua bảng sau:
Bảng 3. Tình hình huy động tiết kiệm tại Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội qua các năm 1996, 1997, quí I - 1998
Đơn vị:triệu đồng
Chỉ tiêu
31/12/96
31/12/97
31/3/98
Chênh lệch 97/96
Chêch lệch QI-98/97
Tiết kiệm không kì hạn
1.913,5
3.256,1
3.857,1
+ 1.342,6
+1.943,6
T/K có kì hạn
97.640,3
93.184,8
103.260,0
- 4.455,5
+ 5.619,7
Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 1996, 1997, quí I-1998 - Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội
Biểu 3-a: Tình hình huy động tiết kiệm tại Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội qua các năm 1996, 1997, quí I - 1998
Như vậy qua các năm, nguồn tiền huy động của Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội chủ yếu từ tiết kiệm có kì hạn. Cuối năm 1996, số dư nguồn tiết kiệm có kỳ hạn là 97.640,3 triệu đồng gấp 51 lần nguồn tiết kiệm không kỳ hạn. Cuối năm 1997, số dư nguồn tiết kiệm có kì hạn là 93.184,8 triệu đồng giảm 4,56% so với cuối năm 1996. Cuối quí I năm 1998, số dư nguồn tiết kiệm có kì hạn là 103.260,0 triệu đồng gấp 26,8 lần nguồn tiết kiệm không kì hạn và tăng 10,8% so với cuối năm 1997. Nguồn tiền gửi tiết kiệm không kì hạn tuy chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng biến đổi theo chiều hướng gia tăng: 1.913 triệu đồng năm 1996, 3.256,1 triệu đồng năm 1997, 1.342,6 triệu đồng quí I năm 1998.
Để hiểu rõ hơn về tình hình huy động tiền gửi kiết kiệm của Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội, tui xin đưa ra một ví dụ chi tiết về số dư tài khoản tiết kiệm trong năm 1997, năm mà Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội đã đạt được một số thành công nhất định.
Bảng 4: Báo cáo số dư tài khoản tiết kiệm Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội - năm 1997
Đơn vị: triệu đồng
Tài khoản
VND
USD
Tổng
1. Tiết kiệm không kỳ hạn
771,3
2.484,8
3.256,1
2. Tiết kiệm có kỳ hạn
- 3 tháng
- 6 tháng
- 9 tháng
- 12 tháng
- 13 tháng
- 24 tháng
- 36 tháng
34.186,5
11.987,0
10.553,4
13,0
169,9
11.012,0
442,0
9,2
50.823,5
12.538,4
17.094,6
113,1
951,6
20.125,8
85.010,0
24.525,4
27.648,0
126,1
1.121,5
31.137,8
442,0
9,2
3. Tiết kiệm có thưởng
- 3 tháng
- 6 tháng
- 12 tháng
3.806,3
3.806,3
7.895,2
5.189,4
1.483,4
1.221,3
Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 1996, 1997, quí I-1998 - Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội
Nhìn chung, tiền tiết kiệm có kỳ hạn chủ yếu là nguồn tiền tiết kiệm ngắn hạn chiếm 65,88%, tiết kiệm trung hạn chiếm 34,12%.
Như vậy, nguồn vốn huy động của Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội năm 1997 và quí I năm 1998 đều cao hơn so với năm 1996. Sở dĩ có kết quả trên là do ngân hàng đã tích cực có các hình thức quảng cáo, có nhiều hình thức huy động hấp dẫn, mạng lưới phục vụ thuận tiện, phong cách thái độ của nhân viên phục vụ văn minh, lịch sự tạo nên sự gần gũi, tin tưởng cho khách hàng. Mặt khác, trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta phát triển tốt, tốc độ tăng trưởng đạt ở mức cao, đồng tiền tương đối ổn định; đời sống của các tầng lớp dân cư nói chung ổn định hơn, dân chúng đã bắt đầu có khả năng tích luỹ, vì thế Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội đã huy động được một nguồn đáng kể từ tiết kiệm của dân cư.
Nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế trong năm 1997 và quí I năm 1998 đều cao hơn so với năm 1996. Đó là do ngân hàng đã làm tốt công tác tiếp thị nên Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội một mặt vẫn duy trì quan hệ với khách hàng cũ, mặt khác đã thu hút được một số khách hàng lớn như: Tổng công ty Lắp máy Việt Nam (Lilama), Tổng công ty Cơ khí xây dựng (Coma), Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ (Vinashin) v.v... đã chuyển một phần thanh toán về hoạt động tại Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội. Tuy nhiên, so với nguồn vốn huy động từ dân cư thì nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế còn thấp đó là do ngân hàng chưa thiết lập được quan hệ đồng thời chưa có khả năng đáp ứng các nhu cầu đa dạng và rất lớn của các tổ chức kinh tế đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh có nhu cầu cao về hoạt động nói chung, thanh toán nói riêng qua ngân hàng.
Cuối năm 1997, tiền gửi của dân cư giảm chủ yếu do biến động của giá USD và giá vàng trên thị trường nên khách hàng đã tập trung rút VND để mua vàng và ngoại tệ nhằm tự bảo toàn vốn. Tuy nhiên, Ngân hàng TMCP á Châu đã kịp thời huy động tiền gửi dưới nhiều hình thức đa dạng hơn như: hình thức bảo đảm bằng vàng, huy động bằng ngoại tệ... nên nguồn vốn huy động vẫn tương đối ổn định.
Nếu phân theo nguyên tệ thì nguồn vốn huy động từ VND năm 1996 chiếm tỷ trọng lớn hơn USD. Nhưng sang năm 1997 và quí I năm 1998, nguồn vốn huy động từ USD lại lớn hơn VND. Cụ thể trong năm 1996, nguồn vốn huy động là USD chiếm 37,72%, năm 1997 chiếm 50,45%, quí I năm 1998 chiếm 36,14% tổng nguồn vốn huy động. Nguồn vốn huy động bằng USD tăng như vậy là do cuối năm 1997 và đầu quí I năm 1998, tình hình tỷ giá ngoại tệ biến động mạnh nên khách hàng tự bảo toàn tiền gửi của mình bằng cách rút tiền VND và mua USD gửi lại vào ngân hàng.
Tóm lại, mặc dù có những khó khăn khách quan và chủ quan, nhưng nguồn vốn huy động của Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội vẫn khá ổn định qua các năm. Chênh lệch số số dư tổng nguồn vốn huy động giữa năm 1996, 1997 và quí I năm 1998 không lớn. Cho dù ngân hàng có nhiều cố gắng trong việc huy động vốn nhưng nguồn vốn huy động chủ yếu vẫn là tiền gửi tiết kiệm từ dân cư. Đây chính là điểm yếu của Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội vì bình quân lãi suất huy động đầu vào cao, đồng thời ngân hàng luôn phải chịu sức ép về dự trữ thanh khoản do VND bị mất giá lớn so với USD. Tuy nhiên, đây là bước đi tất yếu trên con đường hội nhập mà Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội đang tìm cách tháo gỡ.
2.2. Tình hình sử dụng vốn
Hiện nay, nghiệp vụ tín dụng vẫn là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của các ngân hàng thương mại V...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status