Đánh giá thị trường tài chính Việt Nam hậu WTO - pdf 18

Download miễn phí Đề tài Đánh giá thị trường tài chính Việt Nam hậu WTO



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 2
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 2
1.Tài chính và thị trường tài chính 2
1.1. Tài chính 2
1.1.1. Bản chất của tài chính: 2
1.1.2. Chức năng của tài chính: 3
1.1.3. Vai trò của tài chính 3
1.2 Thị trường tài chính 5
1.2.1 Định nghĩa 5
1.2.2 Phân loại thị trường tài chính 5
1.2.3. Cấu thành của thị trường tài chính 5
1.2.4 Vai trò của thị trường tài chính 5
CHƯƠNG II 7
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM HIỆN NAY 7
2.1. Thực trạng thị trường chứng khoán( TTCK ) 7
2.1.1 Những thuận lợi và khó khăn của thị trường chứng khoán Việt Nam 7
2.1.2 Tình hình hoạt động thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay 8
2.2. Thực trạng thị trường tiền tệ 17
2.2.1. Thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc và trái phiếu chính phủ bằng ngoại tệ 17
2.2.2. Thị trường hối đoái 18
2.3 Thực trạng thị trường vốn của Việt Nam 19
2.3.1. FDI tăng kỷ lục 22
2.3.2. CPI tăng phi mã 23
CHƯƠNG III 24
GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM HIỆN NAY 24
3.1. Các giải pháp trên thị trường tiền tệ. 24
* Một số nguyên nhân làm cho thị trường tiền tệ Việt Nam chưa phát triển: 25
* Những giải pháp phát triển thị trường tiền tệ: 27
3.2. Các giải pháp trên thị trường vốn : 29
* Những giải pháp phát triển thị trường vốn 31
Các giải pháp trên thị trường chứng khoán ( TTCK ) 33
KẾT LUẬN 35
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

phát chứng khoán. Khi giá cổ phiếu liên tục tăng lên, cổ phiếu các doanh nghiệp được giao dịch hết. Doanh nghiệp huy động vốn một cách nhanh chóng và dễ dàng, đó cũng là cơ hội thuận lợi hiếm hoi đối với doanh nghiệp. Thực trạng này đã thúc đẩy doanh nghiệp tiếp tục phát hành cổ phiếu nhiều hơn, mở rộng việc huy động vốn. Thực tế trên TTCK nước ta trong thời gian qua có rất nhiều công ty phát hành cổ phiếu đợt 2, đợt 3... Số cổ phiếu phát hành trong những đợt này đều không đại biểu cho lượng giá trị tài sản nào, bởi lẽ giá trị công ty không được xác định lại, giá trị tài sản được cổ phần hoá thành cổ phiếu đã được phát hành. Giá trị tài sản mà cổ phiếu đại biểu giai đoạn sau này đã giảm đi nhiều lần so với cổ phiếu giai đoạn đầu.
Một hoạt động khác cũng được coi là lạm phát chứng khoán. Đó là các công ty trả cổ tức bằng cổ phiếu. Nhiều công ty không trả cổ tức cho nhà đầu tư bằng tiền mà bằng cổ phiếu, nhờ đó mà hàng triệu cổ phiếu được phát hành thêm một cách mặc nhiên và doanh nghiệp thu được khoản tiền đáng kể. Cũng vì thế mà lạm phát chứng khoán trầm trọng hơn và giá trị tài sản mà chứng khoán đại biểu thấp hơn rất nhiều so với trước và so với mệnh giá.
Khi sự thật sáng tỏ và những phản ứng của công ty. Khi các nhà đầu tư nhận thấy giá trị cổ phiếu bị giảm đi liên tục, cổ tức mà cổ phiếu mang lại rất thấp hay không có, mệnh giá cổ phiếu chỉ còn là cái vỏ bề ngoài và giá cổ phiếu giảm liên tục theo giá trị thực của nó. Nhà đầu tư đã bị tước đoạt phần lớn số tiền vốn của mình mà không hề biết, không hiểu vì sao. Các nhà đầu tư có tâm lý hoang mang và nghi ngờ TTCK, tìm cách thu hồi vốn. Họ tìm cách để bán cổ phiếu ra, hạn chế mua vào, xu thế này đã làm giá cổ phiếu giảm và không ổn định.
Qua nghiên cứu cổ phiếu của 10 công ty (chọn ngẫu nhiên) trên TTCK, hai thời điểm là ngày 10/01 và ngày 15/8/2007, chúng ta thấy có 8 công ty giá cổ phiếu và cổ phiếu khớp lệnh sụt giảm lớn. Chỉ có 02 mã cổ phiếu tăng giá nhưng số cổ phiếu khớp lệnh vẫn giảm đi nhiều. Những công ty đó có thể phát hành thêm ít hay không phát hành thêm cổ phiếu và hoạt động kinh doanh tốt, cổ tức mang lại lợi ích cao cho các nhà đầu tư. Do vậy cổ phiếu những công ty này được các nhà đầu tư tăng cường mua vào, hạn chế bán ra:
Bảng biến động 10 mã cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
Mặt khác, TTCK lại tiếp tục có thêm nhiều cổ phiếu mới lên sàn giao dịch, do vậy lượng cung tăng thêm rất nhiều, càng làm cho quan hệ cung cầu chứng khoán mất cân đối nghiêm trọng. Từ những nguyên nhân trên đã làm cho TTCK tụt dốc liên tục. Chỉ số VnIndex từ 1.170 điểm (12/3/2007) xuống còn 883 điểm (06/8/2007) chỉ số HASTC từ trên 450 điểm (09/3/2007) xuống còn 254,3 điểm (06/8/2007).
Đại gia xuất hiện và những ma thuật ở hậu trường. TTCK đã phát triển với quy mô ngày càng lớn. Theo nghiên cứu mới nhất cho biết hiện tại tổng giá trị niêm yết đạt 280.396 tỷ chiếm 28% GDP năm 2006, tới năm 2015 sẽ tăng cao hơn nữa và có thể chiếm 60% GDP của Việt Nam. Những nhà đầu tư nhỏ không thể tác động vào thị trường, kinh doanh nhờ may rủi đã phải nhường chỗ cho các đại gia mỗi lần khớp lệnh lên tới hàng chục tỷ đồng làm thay đổi cung cầu cổ phiếu của một công ty. Hiện nay các đại gia này phần lớn là các nhà đầu tư nước ngoài, họ để mắt tới cổ phiếu của công ty nào thì cổ phiếu của công ty đó tăng giá. Song các nhà đầu tư này chưa sẵn sàng vì lợi tức cổ phiếu mang lại là thấp. Thực tế trong thời gian qua họ mới chuyển từ cổ phiếu này sang cổ phiếu khác, tìm cơ hội rút vốn cho đỡ thua thiệt.
Các doanh nghiệp có cổ phiếu trên sàn cũng tìm cách thao túng thị trường. Họ lập quỹ dự trữ bằng tiền trong công ty. Khi giá cổ phiếu hạ thì tung tiền ra mua vào làm nhu cầu tăng và đẩy giá cả cổ phiếu của công ty tăng cao, có lợi cho công ty.
Một thủ thuật nữa mà nhiều công ty đã sử dụng là thông tin bất thường, thông tin không minh bạch. Các số liệu sổ sách không chính xác, không kịp thời. Nhiều nhà đầu tư rất muốn có đủ thông tin về sản xuất kinh doanh, về thực trạng tài chính, về triển vọng phát triển doanh nghiệp mà họ sở hữu cổ phiếu. Song sự mong muốn đó hoàn toàn không được đáp lại. Họ hoàn toàn bị động và gặp rủi ro cao hơn.
Các doanh nghiệp sau khi thu được khoản tiền lớn từ TTCK lẽ ra phải dùng vốn đó để đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển doanh nghiệp. Nhưng không, chỉ một phần số vốn đó được đầu tư trở lại, phần còn lại chuyển hướng kinh doanh mà những doanh nghiệp lớn thường nhắm tới là ngân hàng. Thực tế trong thời gian qua đã có nhiều doanh nghiệp lớn đang tích cực chuyển sang kinh doanh tiền tệ như LILAMA, FPT, VNPT, VINASYL... Các ngân hàng lại phát hành cổ phiếu ra TTCK tạo thành làn sóng hút vốn bằng tiền vào. Cũng theo cơ chế được phép, ngân hàng cho vay 3% (trước đây lớn hơn nhiều) vốn để giao dịch trên TTCK. Vòng xoáy này ngày càng lớn và thu hút nhiều tiền vào ngân hàng hơn nữa. Qua điều tra mới đây, nguồn gốc lượng vốn đổ vào TTCK rất đa dạng: 41,05% từ tiết kiệm; 13,78% tích luỹ từ hoạt động sản xuất kinh doanh; 10,28% từ lợi nhuận kinh doanh chứng khoán; 14,92% từ vay ngân hàng; 8,39% chuyển từ lĩnh vực đầu tư khác sang và 11,58% từ các nguồn khác. Rõ ràng qua TTCK các doanh nghiệp lớn, các ngân hàng kinh doanh tiền tệ đã hút cạn lượng tiền trong dân, làm mất cân đối tiền hàng và giảm sức mua trên thị trường. Nguyên nhân trên sẽ dẫn tới hậu quả là nền kinh tế trì trệ, khả năng thanh toán thấp, thị trường hàng hoá, nhất là bất động sản ảm đạm báo hiệu sớm nguy cơ khủng hoảng thị trường tài chính. Khi đó, sẽ gây tác hại to lớn khó lường cho TTCK.
Biến động TTCK trong thời gian tới .
Trong thời gian tới TTCK nước ta sẽ diễn biến rất phức tạp, không những chịu sự chi phối của những yếu tố nội tại TTCK mà còn chịu sự chi phối của các yếu tố kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế. Kinh tế thế giới đã vào cuối chu kỳ phát triển. Khủng hoảng năng lượng luôn đe doạ, giá dầu tăng cao đã làm gia tăng lạm phát toàn cầu. Kinh tế Việt Nam cũng rơi vào tình trạng đó. Lạm phát tăng cao cùng với sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, lợi tức thấp khiến các nhà đầu tư tìm cách rút vốn từ TTCK sang đầu tư lĩnh vực khác an toàn hơn. Nhu cầu cổ phiếu sẽ bị giảm đi nhiều. Lượng cung cổ phiếu lại tăng cao do lạm phát cổ phiếu và do cổ phiếu nhiều công ty mới lên sàn giao dịch. Điều này đã làm thị giá cổ phiếu giảm đi nhanh chóng. Như vậy TTCK sẽ suy giảm, chỉ số chứng khoán khó tăng trở lại mà có nguy cơ giảm nữa.
2.2. Thực trạng thị trường tiền tệ
Do sự bất ổn định trên thị trường tiền tệ thế giới vào cuối năm 2007 và đầu năm 2008 mà cụ thể nhất là cuộc khủng hoảng tín dụng thứ cấp ở Mỹ do giá nhà đất sụt giảm làm cho đồng USD mất ổn định mà đỉnh điểm của sự mất giá đồng USD là ngày 15/04/2008 tỉ giá EUR/USD=1,6000 đi kèm với việc đồng USD mất giá là giá dầu thô và vàng liên ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status