Các công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường - pdf 19

Download miễn phí Luận văn Các công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường



Công cụ kinh tế là một trong những công cụ quan trọng để bảo vệ môi trường. Nó đã đang được áp dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Qua thực tiễn kiểm nghiệm ở một số nước đã chứng tỏ công cụ kinh tế có tác dụng sau:
- Điều chỉnh hành vi môi trường một cách tự động do mức thải có quan hệ một cách tự động đối với thuế (tức là cái giá của sự gây ô nhiễm).
- Tính hiệu quả về chi phí khi với một mức thải nhất định thì thuế, phí chất thải đảm bảo đạt được mục tiêu chi phí tối thiểu.
- Khuyến khích hành vi bảo vệ môi trường. Do công cụ kinh tế không chỉ có tác dụng trực tiếp và lâu dài đối với hành vi gây ảnh hưởng tới môi trường của doanh nghiệp mà còn có tác dụng sâu xa tới quá trình nghiên cứu, triển khai, thay đổi kỹ thuật và công nghệ sản xuất có lợi cho môi trường.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

hác.
- Có khả năng hình thành và duy trì hệ thống kiểm soát gây ô nhiễm.
- Có tác động làm các tác nhân gây ô nhiễm giảm mức ô nhiễm hay thay đổi hành vi gây ô nhiễm của mình.
- Có tác động khuyến khích đổi mới công nghệ.
Nhìn chung thì phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm được sử dụng rộng rãi đối với vấn đề ô nhiễm nước, nhất là các chất gây ô nhiễm nguồn nước mặt. Tuy nhiên việc áp dụng loại phí này đối với chất gây ô nhiễm không khí có phần phức tạp do rất khó kiểm soát lượng ô nhiễm thải ra để tính mức thu phí. (Đối với chất thải rắn thì phí gây ô nhiễm chỉ được áp dụng hạn chế ở một số nước như Mỹ, Hà Lan dưới dạng thuế đánh vào chất thải độc hại và phí sử dụng phân bón quá mức quy định).
Với việc áp dụng loại công cụ kinh tế là phí môi trường, nhà nước ta đã điều chỉnh được các hành vi tác động gây ô nhiễm môi trường, hướng các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh tới hành động thân thiện với môi trường, hơn nữa nó tạo nguồn thu nhằm xậy dựng hệ thống bảo vệ và quản lý môi trường được tốt hơn.
2.3.2. Phí đánh vào người sử dụng.
Phí đánh vào người sử dụng là khoản phí phải trả cho dịch vụ thu gom và xử lý chất thải (như hệ thống thoát nước; thu gom rác thải…). Có quốc gia gọi khoản tiền phải nộp khi có chất thải là thuế môi trường, có quốc gia gọi là phí đánh vào người sử dụng. Các khoản thu này dùng để bù đắp cho hoạt động của hệ thống thu gom, xử lý chất thải. Loại phí này chủ yếu được dùng để áp dụng đối với các loại chất thải có thể kiểm soát (kiểm soát được số lượng, chất lượng thải ra của người sử dụng). Dựa vào đó ta có hai cách thu phí chủ yếu là thu theo số lượng và chất lượng chất thải hay thu theo mức cố định đối với tổ chức và cá nhân, hiện nay loại phí này ở Việt Nam gọi là phí vệ sinh.
Các khoản thu từ phí này được dùng để góp phần bù đắp chi phí bảo đảm cho hệ thống thu gom và xử lý chất thải hoạt động. Do đó mục đích chính của loại phí này là nhằm tăng nguồn thu cho Chính Phủ và đối tượng thu là những cá nhân hay đơn vị trực tiếp sử dụng hệ thống dịch vụ công cộng.
2.3.3. Phí đánh vào sản phẩm.
“Phí đánh vào sản phẩm là khoản tiền phải trả khi hàng hoá được sử dụng có nguy cơ ảnh hưởng lớn tới môi trường”(1) Tha. Nguyễn Vă Phương - Trường Đại học Luật Hà Nội - Tập bài giảng
. Thông thường với hàng hoá nhập khẩu người ta sử dụng thuế môi trường, với hàng sản xuất trong nước, người ta sử dụng hình thức phí đánh vào sản phẩm.
Là loại phí được áp dụng đối với những loại sản phẩm gây tác hại tới môi trường một khi chúng được sử dụng trong quá trình sản xuất, tiều dùng hay phế thải của chúng, cụ thể là những sản phẩm chứa chất độc hại mà với khối lượng lớn nhất định, chúng sẽ gây tác hại tới môi trường chẳng hạn như các chất kim loại nặng. Giống như phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm vừa đề cập ở phần trên, phí đánh vào sản phẩm nhằm hai mục đích là khuyến khích giảm ô nhiễm bằng giảm việc sử dụng, tiêu dùng các sản phẩm bị đánh phí và mục đích thứ hai là tăng nguồn thu cho Chính Phủ. Sở dĩ phải đánh phí đối với cc sản phẩm gây tác hại đến môi trường là để có nguồn tài chính xây dựng hệ thống xử lý việc ô nhiễm của các sản phẩm gây tác hại tới môi trường khi chúng được sử dụng (trong sản xuất, tiêu dùng).
Mức thu phí do đó sẽ tuỳ từng trường hợp vào mục tiêu đối với loại phí này là gì. Đối với mục đích tăng nguồn thu cho Chính Phủ thì “mức phí được xác định dưa vào tổng mức thu dự định sẽ thu hàng năm và số sản phẩm sẽ được tiêu thụ”. Còn đối với mục đích khuyến khích giảm ô nhiễm thì “mức thu phí được xác định dựa vào các nhân tố như: Độ co giãn về giá cả của đường cầu sản phẩm bị đánh phí, khả năng tồn tại sản phẩm thay thế ít gây ô nhiễm hơn và mục tiêu muốn giảm lượng ô nhiễm”.
Phí đánh vào sản phẩm có thể được sử dụng thay cho phí gây ô nhiễm môi trường nếu vì lý do nào đó người ta không thể trực tiếp tính được phí đối với các chất gây ô nhiễm, loại phí này có thể đánh vào sản phẩm nguyên liệu đầu vào.
Tuy nhiên phí đánh vào sản phẩm chỉ đạt đựơc hiệu quả tối ưu khi trên thị trường có sản phẩm có khả năng thay thế với đặc điểm là sản phẩm này có khả năng thay thế hay ảnh hưởng ít tới môi trường. Bởi vì mục đích của việc đánh phí là nhằm khuyến khích giảm ô nhiễm bằng việc sử dụng sản phẩm tiêu dùng có ảnh hưởng ít tới môi trường. Vậy chỉ khi nào có sản phẩm thay thế (ít ảnh hưởng hay không ảnh hưởng tới môi trường) thì người sử dụng sản phẩm mới thay thế và không hay ít sử dụng sản phẩm có ảnh hưởng tới môi trường.
Có thể nói đây là công cụ hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nhằm thay đổi hành vi môi trường của các đối tượng gây ô nhiễm cũng như hưởng thu môi trường trong lành. Mặt khác, công cụ kinh tế này cũng đem lại cho ngân sách Nhà nước một nguồn thu đáng kể. Phí bảo vệ môi trường cũng có thể coi là một trong những công cụ kinh tế có khả năng sử dụng hữu hiệu trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay. Với cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc thu phí bảo vệ môi trường đang từng bước được xây dựng và hình thành, phí bảo vệ môi trường sẽ đem lại những kết quả mong muốn trong công tác bảo vệ môi trường ở Việt nam hiện nay.
2.4. Hệ thống đặt cọc- hoàn trả (ký quỹ hoàn trả).
Hệ thống đặt cọc hoàn trả là hệ thống áp đặt sự đặt tiền trước ở vào lúc hàng hoá được mua và số tiền đó sẽ được trả lại khi hàng hoá đã được
quay vòng sử dụng.
Khi có các hoạt động có nguy cơ ảnh hưởng xấu tới môi trường, chủ doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh phải đặt cọc một khoản tiền nhằm bảo đảm việc thực hiện các biện pháp khôi phục môi trường. Có như vậy thì vấn đề bảo vệ môi trường mới được đảm bảo, tránh tình trạng môi trường không được khôi phục. Hơn nữa công cụ kinh tế này áp dụng sẽ nâng cao trách nhiệm cũng như xử lý vi phạm được dễ dàng hơn. Khi chủ doanh nghiệp không khôi phục môi trường thì nhà nước sẽ sử dụng số tiền này để thuê các tổ chức, cá nhân khác tiến hành khôi phục môi trường.
Mặc dù hệ thống này thường đựơc áp dụng mang tính truyền thống đối với các đồ uống (như đồ uống giải khát) nhưng nội dung của nó đã được giảm bớt đối với những thứ ít có giá trị để nhường chỗ cho những thứ có giá trị hơn. Bởi vì khi nhưng sản phẩm này có giá trị nhỏ, thậm chí là rất nhỏ nên khi áp dụng hệ thống đặt cọc- hoàn trả rất khó kiểm tra việc có gây ô nhiễm môi trường hay không và thường là bỏ qua. Hệ thống đặt cọc hoàn trả có thể được áp dụng cho bất kỳ sản phẩm nào, mà chúng đòi hỏi một sự tập trung cao để tái sử dụng, tái quay vòng, nhằm đảm bảo an toàn cho việc đặt cọc và hạn chế bớt những hàng hoá ít có giá trị mà lại có thể gây ra mức ô nh...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status