Khả năng áp dụng mô hình Công ty mẹ - Công ty con ở nước ta - pdf 24

Download miễn phí Đề tài Khả năng áp dụng mô hình Công ty mẹ - Công ty con ở nước ta



Mục lục
A. Lời mở đầu
B. Nội dung
I. Những vấn đề chung về mô hình công ty mẹ - công ty con.
II. Bản chất của mô hình công ty mẹ - công ty con
1. Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền
2. Bản chất của mô hình công ty mẹ - công ty con
III. Khả năng áp dụng mô hình công ty mẹ - công ty con ở nước ta.
1. Sự cần thiết chuyển đổi các tổng công ty, doanh nghiệp nhà nhà nước sang mô hình công ty mẹ - công ty con.
2. Cách thức chuyển đổi các tổng công ty 90-91 sang mô hình công ty mẹ - công ty con.
3. Thực trạng việc áp dụng mô hình công ty mẹ - công ty con ở nước ta.
IV. Kết luận
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


xí nghiệp nhỏ này "phụ thuộc" vào chúng, phục tùng chúng, sát nhập vào tập đoàn của "chúng" - tức là vào "Công - xooc - xi - ông" của chúng bằng cách "tham dự" vào tư bản của những ngân hàng nhỏ ấy, bằng lối mua hay trao đổi cổ phần, bằng chế độ tín dụng…
Sự tích tụ và tập trung sản xuất trong nghành ngân hàng đã làm xuất hiện các tổ chức độc quyền ngân hàng, có quy mô lớn, có quyền lực vạn năng và sử dụng hầu hết tổng số tư bản tiền tệ của xã hội. Khi nắm trong tay một số tư bản tiền tệ lớn của xã hội, các tổ chức độc quyền ngân hàng bắt các xí nghiệp công nghiệp phải đặt quan hệ tín dụng cố định vào một ngân hàng và tập trung tất cả nghiệp vụ tài chínhcủa xí nghiệp vào tổ chức độc quyền ngân hàng này. Bằng cách đó, ngân hàng nắm trong tay các tài khoản của các nhà tư bản công nghiệp, ngân hàng có thể nắm được tình hình hoạt động của các nhà tư bản một cách chính xác, qua đó kiểm soát gây ảnh hưởn đến việc thu nạp hay mở rộng tín dụng, rồi sau cùng hoàn toàn quyết định vận mệnh của xí nghiệp công nghiệp công thương nghiệp tư bản, quyết định số thu nhập của các xí nghiệp… đó là vai trò lớn của ngân hàng.
Ngoài ra, còn phát triển sự liên hợp cá nhân giữa các ngân hàng với xí nghiệp công thương nghiệp lớn, phát triển sự hợp nhất giữa những ngân hàng này với với những xí nghiệp kia bằng cách mua cổ phần, bằng cách đưa các giám đốc ngân hàng vào trong các hội đồng giám sát (hay quản trị) của các xí nghiệp công thương nghiệp và ngược lại.
Sự liên hiệp cá nhân giưa các ngân hàng với các xí nghiệp công thương nghiệp được bổ sung bằng sự liên hiệp cá nhân giữ những ngân hàng và những xí nghiệp công nghiệp với chính phủ.
Như vậy, một mặt là có sự dung hợp ngày càng chặt chẽ giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp mặt khác có sự cải biến các ngân hàng thành các công ty vạn năng.
Sự xâm nhập hay dung hợp lẫn nhau ngày càng chặt chẽ giữa tư bản công nghiệp và tư bản ngân hàng hình thành một quan hệ xã hội mới, một thứ tư bản mới, đó là tư bản tài chính.
Theo V.Lê-Nin " Sự tập trung sản xuất, các tổ chức độc quyền sinh ra từ sự tập trung đó, sự hợp nhất hay sự gắn chặt vào nhau giữa ngân hàng và công nghiệp, đó là lịch sử sự hình thành tư bản tài chính và là nội dung khái niệm tư bản tài chính".
Một nhóm nhỏ những chủ ngân hàng và công nghiệp độc quyền kếch xù khống chế toàn bộ sinh hoạt kinh tế và chính trị trong nước đó chính là bọn đầu sỏ tài chính.
Bọn đầu sỏ tài chính khống chế các ngành kinh tế chủ yếu thông qua "chế độ tham dự" - chế độ cổ phiếu khổng chế. Bằng chế độ này người giám đốc kiểm soát công ty gốc (công ty mẹ), công ty gốc lại chỉ phối các công ty phụ thuộc vào công ty gốc (công ty con), các công ty con này lại chi phối các công ty cháu… Như vậy không cần có số vốn rất lớn mà người ta vẫn có thể nắm chắc được nhiều lĩnh vực rộng lớn. Thật thế, nếu có 50% sổ vốn là luôn đủ để kiểm soát một công ty cổ phần thì người giám đốc chỉ cần một triệu là có thể kiểm soát được 8 triệu vốn của các công ty cháu. Và cứ đẩy lối "tổ chức móc xích" như thế mãi thì với 1 triệu người ta có thể kiểm soát được 16 triệu, 32 triệu…
Kỹ thuật, chỉ cần có 40% số cổ phần cũng đủ để quản lý các công việc của công ty, vì một số nào đó những cổ đông nhỏ ở rải rác, thực tế không có một khả năng nào để tham gia các cuộc họp cổ đông … Thực chất là việc "dân chủ hóa tư bản" - đó là việc một bộ phận ngày càng tăng người lao động có cổ phần trong các công ty cổ phần, trở thành chủ sở hữu với các nhà tư bản lớn, nhỏ khác nhau . . .chỉ là một thủ đoạn để tăng thế lực cho bọn đầu sỏ tài chính.
Nhưng chế độ tham gia không phải chỉ dùng để làm cho thế lực của bọn độc quyền tăng lên vô cùng mà thôi đâu, ngoài ra nó còn cho phép dùng mưu đồ gian bỉ ổi không bị tội lỗi nào cả cho phép ăn cắp của công chúng, bởi vì, chính thức, đối với pháp luật, thì bọn giám đốc "công ty mẹ" không chịu trách nhiệm về công ty chi nhánh chúng có thể làm bất cứ điều gì, bất cứ cái gì cũng được. Đây là một ví dụ điển hình rút ra trong tập Tạp chí Ngân hàng ở Đức ra tháng 11-1914: "Công ty vô danh chế thép lòi so" ở Cat-xen, trước đây vài năm đang còn là một trong các xí nghiệp ở Đức có nhiều thu nhập hơn cả, nhưng vì quản lý kém nên các phần lời cổ phần của nó từ 15% nay tụt xuống không còn gì cả. Không cho những người có cổ phần biết, ban giám đốc đã cho một trong những công ty chi nhánh của nó, công ty Hat-xi-a mà số tư bản danh nghĩa chỉ có vài chụ mac thôi, vay một số vốn là 6 triệu Mac. Sổ sách kế toán của công ty mẹ không hề nói gì đến khoản vay đó của công ty mẹ. Đứng về mặt pháp lý mà nói, thì lờ đi như thế vẫn hoàn toàn hợp pháp và nó cứ lờ đi như thế trong 2 năm. Viên chủ tịch hội đồng giám sát, là người có trách nhiệm và đã kí chứng nhận cho các quyết toán gian lận đó, trước đây và hiện nay, vẫn làm chủ tịch phòng thương mại Cat-xen. Chỉ mãi rất lâu về sau, những người có cổ phần mới biết việc cho công ty Hat-xi-a vay tiền và các cổ phần của công ty "thép lòi xo" đã mất gần 100% giá trị và bị những người biết chuyện đem bán tống tháo đi.
Ngoài chế độ tham dự, bọn đầu sỏ tài chính còn dùng những thủ đoạn khác để chi phối tiền của người khác, như lập ra các công ty bảo hiểm, các tơ-rớt đầu tư, các công ty mới, phát hành chứng khoán, kinh doanh công trái …
Nếu như trong thời kì công nghiệp phồn thịnh, tư bản tài chính thu được những món lời vô cùng lớn, thì trong thời kì tiêu điều, những xí nghiệp nhỏ và những xí nghiệp bấp bênh tiêu vong đi, thì các ngân hàng lớn hay "tham dự" vào việc mua các xí nghiệp đó với giá rẻ mạt, hay tham gia vào những việc chỉnh lí và cải tổ có lời. Trong việc chỉnh lí những xí nghiệp thua lỗ, thì tư bản-cổ phần bị giảm xuống, nghĩa là tiền lời đều đem phân phối theo những số vốn ít hơn trước… Tất cả những việc chỉnh lí và cải tổ ấy đối với các ngân hàng, đều có hai ý nghĩa: Trước hết đó là việc làm có lợi và sau nữa là một cơ hội để giám sát các công ty bị quẫn bách ấy.
Không dừng lại ở trong nước, tư bản tài chính thực hiện sự bành trướng thế lực, mở rộng thống trị ra các nước bằng cách xuất khẩu tư bản, xâm chiếm thị trường thuộc địa. Kết qủa là sự hình thành tư bản độc quyền quốc tế.
Tư bản độc quyền quốc tế là liên minh các tổ chức độc quyền lớn nhất của các nước tư bản cùng nhau phân chia thị trường và nguồn nguyên liệu, định chính sách giá cả, quy mô sản xuất nhằm thu được lợi nhuận độc quyền cao.
Xuất khẩu tư bản là phương tiện chủ yếu để tư bản tài chính mở rộng thống trị trên phạm vi quốc tế. Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu là trực tiếp tham gia kinh doanh (đầu tư) và cho vay. Đó là việc đem tư bản ra nước ngoài nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao ở nước ngoài. Hình thức hoạt động chủ yếu của độc quyền quốc tế hiện nay là các Công-xác-xi-om và công ty xuyên quốc gia hay đa quốc gia.
Các cô...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status