Vận dụng phép biện chứng duy vật trong nghiên cứu vai trò trung tâm kinh tế của Thủ đô Hà Nội đối với các tỉnh đồng bằng sông Hồng - pdf 28

Download miễn phí Đề tài Vận dụng phép biện chứng duy vật trong nghiên cứu vai trò trung tâm kinh tế của Thủ đô Hà Nội đối với các tỉnh đồng bằng sông Hồng



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT 3
1. Nội dung của Phép biện chứng duy vật: 3
1.1- Lịch sử phép biện chứng và phép biện chứng duy vật khoa học? 3
1.2- Phép biện chứng duy vật có cơ sở khoa học và nguồn gốc lịch sử nào? 4
1.3- Xét theo cấu trúc nội dung cơ bản, phép biện chứng duy vật bao gồm những nguyên lý, quy luật cơ bản nào? 4
2. Ý nghĩa nghiên cứu của Phép biện chứng duy vật: 5
3. Phép biện chứng duy vật trong nghiên cứu và quản lý kinh tế: 8
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ TRUNG TÂM KINH TẾ CỦA HÀ NỘI ĐỐI VỚI CÁC TỈNH TRONG VÙNG ĐBSH 9
1. Vị trí của Hà Nội trong vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH): 9
2- Những đóng góp về kinh tế của Hà Nội với các tỉnh vùng ĐBSH 9
2.1- Phát triển các KCN và đô thị hoá: 10
2.2- Hệ thống giao thông và cơ sở hạ tầng: 10
2.3- Thương mại: 11
2.4- Dịch vụ, du lịch: 11
2.5- Ngành Nông nghiệp: 11
2.6- Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực: 11
3- Những hạn chế trong vào trò trung tâm kinh tế của Hà Nội trong vùng ĐBSH 12
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ TRUNG TÂM KINH TẾ CỦA HÀ NỘI 19
1. Giải pháp mới có tính chất đột phá 19
2- Giải pháp phát triển ngành và lĩnh vực chủ đạo 20
2.1. Đối với công nghiệp: 20
2.2. Đối với dịch vụ 21
2.3. Đối với nông, lâm, thuỷ sản 22
2.4. Đối với kết cấu hạ tầng có ý nghĩa then chốt 23
3- Phát triển hệ thống đô thị, khu kinh tế tổng hợp và khu công nghiệp tập trung 24
3.1- Phát triển hệ thống đô thị 24
3.2- Phát triển các khu công nghiệp tập trung, khu công nghệ cao 25
3- Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao. 25
4- Cải tiến cơ chế, chính sách, thu hút thêm nguồn vốn. 25
5 - Xây dựng không gian kinh tế thống nhất 26
6- Hiện đại hoá mạng kết cấu hạ tầng. 27
6.1 -Về giao thông vận tải 27
6.2 -Về bưu chính viễn thông 29
6.3 - Về cấp, thoát nước 29
6.4 -Về hệ thống mạng lưới điện 29
7- Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài nước 30
8- Đầu tư phát triển thủ đô Hà Nội tạo động lực phát triển toàn vùng: 30
KẾT LUẬN 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO 35
 
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


ắt đầu phát triển, thúc đẩy sự phát triển chung. Tốc độ tăng giá trị các ngành dịch vụ bình quân hàng năm đạt khoảng 8,5%. Thương mại phát triển mạnh, cả ở thành thị và nông thôn. Du lịch phát triển ngày một đa dạng và có chất lượng.
2.5- Ngành Nông nghiệp:
Nông nghiệp (theo nghĩa rộng bao gồm cả nông, lâm nghiệp, thủy sản) có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn trước, đã và đang chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá hướng về xuất khẩu. Đã xuất hiện một số sản phẩm có chất lượng tương đối tốt, rõ nhất là gạo chất lượng cao, lợn sữa xuất khẩu. Kinh tế thuỷ sản phát triển, xuất hiện một số mô hình nuôi trồng thuỷ sản có hiệu quả. Nổi bật là mô hình nuôi cá nước ngọt, nuôi tôm nước lợ, nuôi ngọc trai và nuôi hải sản.
2.6- Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực:
Tại vùng ĐBSH, bước đầu trong một số lĩnh vực đã hình thành được đội ngũ doanh nhân và lao động kỹ thuật có năng lực tiếp cận trình độ quốc tế trong các lĩnh vực có vốn đầu tư nước ngoài như: điện tử, đồ điện dân dụng, công nghệ phần mềm, sản xuất vật liệu, lắp ráp ô tô, xe máy; may mặc, giày dép, nước giải khát. Vùng có khoảng 30 vạn doanh nghiệp công nghiệp (ước khoảng gần 90 vạn các nhà doanh nghiệp), chiếm 39,4% số doanh nghiệp công nghiệp cả nước và hơn 5 nghìn doanh nghiệp thuộc ngành dịch vụ thương mại, du lịch (ước khoảng gần 15-20 nghìn các nhà doanh nghiệp), chiếm 21% số doanh nghiệp thương mại du lịch cả nước.
3- Những hạn chế trong vào trò trung tâm kinh tế của Hà Nội trong vùng ĐBSH
Tuy nhiên, Hà Nội còn nhiều yếu kém: Kinh tế tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng và vị thế của Thủ đô. Vai trò trung tâm kinh tế của cả nước chưa nổi bật, hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh thấp. Công tác quản lý đô thị còn bất cập. Chất lượng hạ tầng kĩ thuật đô thị thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tình trạng ùn tắc giao thông, đất công bị lấn chiếm, ô nhiễm môi trường, chưa đảm bảo an toàn thực phẩm, tăng dân số cơ học đang là những vấn đề bức xúc, một số tệ nạn xã hội gia tăng. Xây dựng cơ sở hạ tầng, quy hoạch đô thị còn nhiều ngổn ngang, bất hợp lý.
Bộ máy quản lý cồng kềnh, hoạt động kém hiệu lực - hiệu quả.. Một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức, quan liêu tham nhũng.
Quản lý hành chính ở một số đơn vị cơ sở cấp phường còn nhiều sách nhiễu, gây khó khăn trở ngại cho nhân dân.
Nguyên nhân của những khuyết điểm:
1. Đảng bộ và chính quyền thành phố Hà Nội chưa thật chủ động, năng động nghiên cứu, triển khai các giải pháp kiên quyết, các khâu đột phá để phát huy tốt vai trò và vị thế của Thủ đô, chưa khai thác được sự trợ giúp của các Bộ, ban ngành Trung ương, các cơ quan khoa học, các chuyên gia.. trên địa bàn; chưa chủ động phối hợp với các địa phương, trực tiếp là các tỉnh thành lân cận trong khu vực kinh tế đồng bằng sông Hồng và tam giác kinh tế khu vực phía Bắc.
2. Một số bộ, ban, ngành trung ương chưa nhận thức sâu sắc trách nhiệm trong việc xây dựng và phát triển Thủ đô. Việc phân công, phân cấp giữa Trung ương và thủ đô còn chưa rõ ràng, còn chồng chéo chưa khai thác tốt các tiềm năng trên địa bàn.
3. Một số địa phưong, trước hết là lân cận Hà Nội chưa chủ động phối hợp với Hà Nội xây dựng và thực hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội có hiệu quả.
(1) Các ngành kinh tế của ĐBSH phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của vùng; các mục tiêu quy hoạch đề ra hầu hết chưa thực hiện được. Sau khi quy hoạch vùng ĐBSH được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (tại Quyết định số 667/QĐ-TTg ngày 23/8/1997), các ngành, các địa phương đã tích cực triển khai thực hiện quy hoạch, bước đầu đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng chưa tạo được đà bứt phá, mức đạt còn thấp so mục tiêu của quy hoạch.
- Mục tiêu mức tăng GDP thời kỳ 1996 - 2000 chỉ bằng khoảng 80% mục tiêu quy hoạch đã đề ra (9/11,45%/năm), tốc độ tăng GDP của các năm 2001-2004 cũng chỉ đạt mức khoảng 8,5 - 9%/năm. Theo xu thế này, mục tiêu tăng trưởng của quy hoạch (thời kỳ 2001 - 2005: 13% và thời kỳ 2006 - 2010: 14%) khó có khả năng đạt được.
- Chưa tận dụng hết năng lực sản xuất công nghiệp, mức phát huy công suất thiết kế của phần lớn doanh nghiệp còn thấp. Đến nay mức phát huy công suất thiết kế cao nhất chỉ khoảng 60% (một số loại phát huy công suất tương đối cao như xi măng khoảng 70%, gạch ốp lát 62%, ti vi 53%, dệt vải 35%, quần áo may sẵn 58%, chế biến sữa 47%). Một số sản phẩm cao cấp đặc trưng của vùng như lắp ráp ôtô, xe máy, xe đạp, mức huy động công suất cũng không cao .
- Xuất khẩu chỉ đạt được khoảng 78% so với mục tiêu đề ra (năm 2000 đạt khoảng 2,1 tỷ USD, năm 2002 đạt 2, 424 tỷ USD, năm 2004 xấp xỉ 3 tỷ USD). Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người của vùng ĐBSH năm 2004 bằng 88% xuất khẩu bình quân đầu người của cả nước và chỉ bằng khoảng 20-25% của vùng Đông Nam Bộ. Các ngành tiểu thủ công nghiệp, mỹ nghệ tuy có tiềm năng song phát triển còn hạn chế.
- Thu ngân sách nhà nước còn thấp so với tiềm năng của vùng. Tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách nhà nước năm 2004 đạt khoảng 20 %, thấp hơn mức trung bình của cả nước và chưa có xu hướng tăng một cách ổn định.
- Mục tiêu đảm bảo việc làm cho người lao động không đạt, vùng ĐBSH có tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị vào loại cao nhất cả nước, tới trên 6% (trung bình của cả nước 5,6%).
(2) Cơ cấu kinh tế có bước phát triển song bộc lộ nhiều yếu kém, chuyển dịch cơ cấu kinh tế không đạt được mức đề ra của quy hoạch. Năm 2004 so với các mục tiêu đề ra cho năm 2000 thì tỷ trọng công nghiệp đã vượt (40,5/33,1%), tỷ trọng nông nghiệp cũng đã vượt mức quy hoạch (11,7/15,9%), tỷ trọng dịch vụ không đạt mục tiêu (47,8/51%). Biểu hiện cơ bản về yếu kém cơ cấu là:
- Các ngành công nghiệp hỗ trợ (bổ trợ) nhằm phát huy thế và lực trong vùng ĐBSH còn rất kém, chính vì vậy dẫn đến giá trị quốc gia trong sản phẩm của vùng còn thấp.
Đến nay các ngành sản xuất phụ trợ đi theo lắp ráp ôtô, xe máy, tivi như công nghiệp sản xuất phụ tùng ôtô, phụ tùng xe máy, linh kiện điện tử, vỏ ti vi... còn quá non trẻ và không đáng kể nên tỷ lệ nội địa hoá rất thấp, chẳng hạn đối với sản phẩm dệt chỉ đạt 30%, ôtô 6%, hàng điện tử 10%. Đánh giá chung, giá trị quốc gia (thể hiện qua công nghiệp bổ trợ) chỉ khoảng 20-25%. Đây là một khoảng cách rất lớn phải phấn đấu gia tăng.
- Dịch vụ chất lượng cao chưa phát triển.
Kinh nghiệm các nước, để đảm bảo nền kinh tế phát triên vững chắc, thì giá trị gia tăng các ngành sản xuất (công nghiệp-xây dựng và nông lâm, ngư nghiệp) tăng 1% thì giá trị gia tăng ngành dịch vụ phải tăng từ 1,1-1,8%. Như vậy, thời gian qua các ngành sản xuất tăng khoảng 8,8%/năm thì dịch vụ tăng ít nhất là 10%, song thực tế chỉ tăng khoảng 7%/năm.
- Chưa lựa chọn được cơ cấu kinh tế hấp dẫn các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài. Mức thu hút đầu tư nước ngoài còn thấp so với vùng ĐNB. Tính đến hết năm 2004, đầu tư trực tiếp nước ngoài của vùng chỉ bằng khoảng 25% tổng mức của cả nước, và bằng 40% của vùng Đông Nam Bộ.
- Tại vùng ĐBSH, chủ trương phát triển các sản phẩm chủ lực có ưu thế cạnh tranh chưa rõ (chưa rõ cả về chủng loại sản phẩm, khối lượng và chất lượng sản phẩm); do đó đầu tư phát triển các sản phẩm chủ lực của vùng ĐBSH còn ít. Đến nay các ngành cơ khí chế tạo, điện tử, sản xuất đồ điện... vốn có thế mạnh của vùng, song không được phát triển tương xứng.
Nhìn chung, từ lợi thế của vùng, từ những mô hình làm ăn có hiệu quả cho thấy, nếu hỗ trợ phát triển nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ hợp lý từ nguồn bù đắp chi ngân sách hàng năm của vùng, tạo thêm nhiều việc làm, hỗ trợ thúc đẩy phân công lại lao động tại chỗ; chuyển giao và ứng dụng nhanh khoa học công nghệ mới... để tăng nguồn thu cho ngành và địa phương, thì GDP của vùng ĐBSH có thể đạt cao hơn, bằng khoảng 1,4 lần so mức đã đạt được hiện nay và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế có thể đạt mức 12-13%/năm chứ không phải mức 8-9%/năm như hiện nay.
(3) Diện tích đất nông nghiệp không nhiều và có xu hướng giảm dần nhưng giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích chưa cao, 80% dân số nông thôn còn làm nông nghiệp, tiềm lực trong dân cư hạn chế; các đô thị và đất phi nông nghiệp mở rộng, một bộ phận lớn nông dân không có việc làm..., đang đặt ra nhiều vấn đề gay gắt.
(4) Sự phát triển còn mang tính tự phát, không bám sát quy hoạch đề ra, rõ nhất ở các lĩnh vực sau đây:
- Nhiều điểm đô thị phát triển tự phát, bám quá sát vào các trục giao thông lớn như ở đường 5, đường 18, đường 1A, đường 39...; trình độ quản lý đô thị thấp, dẫn đến hạn chế việc mở rộng đường khi có nhu cầu; đặc biệt, làm cản trở gây ùn tắc và tai nạn giao thông.
- Các làng nghề phát triển tự phát, hầu hết chưa có quy hoạch, đặc biệt không có biện pháp chống ô nhiễm môi trường, dẫn đến một số quận, huyện, thành phố và nhiều vùng nông thôn, môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng.
- Hệ thống đào tạo từ bậc cao đẳng trở lên và dạy nghề ở vùng ĐBSH chưa được quy hoạch phát triển một cách có căn cứ khoa học là nguyên nhân chủ yếu làm cho chất lượng đào tạo thấp và chưa theo kịp yêu cầu của thị trường.
(5) Vẫn còn có sự chênh lệch đáng kể ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status