Tài liệu Luận văn “Một số giải pháp tạo vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các DNNN ở Việt Nam hiện nay” - Pdf 10



Luận văn
Đề tài “Một số giải pháp tạo vốn và nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn cho các DNNN ở
Việt Nam hiện nay” (1) T¹p chÝ Th«ng tin Khoa häc Ng©n hµng sè 7/1997
-1-
Lời nói đầu

rong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000,
Đảng ta cũng đã chỉ rõ “Chính sách tài chính quốc gia hướng vào việc tạo
ra vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm
xã hội và thu nhập quốc dân ”

quả sử dụng vốn cho các DNNN ở Việt Nam hiện nay”. Do thời gian hạn chế,
kinh nghiệm thực tế chưa nhiều. Do đó đề tài nay không tránh khỏi những thiếu
sót. Song đây cũng là nỗ lực của bản thân. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến
quý báu của thầy giáo để việc nghiên cứu của em ngày càng hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

§Ò ¸n m«n häc

- 3 - I. VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN - ĐIỀU KIỆN TỒN TẠI VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.Vốn và vai trò của vốn đối với DNNN trong nền kinh tế thị trường
1.1.Khái quát về vốn.
Từ trước đến nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về vốn, mỗi một quan điểm
đều có cách tiếp cận riêng. Nhưng có thể nói, thực chất vốn chính là biểu hiện
bằng tiền, là giá trị của tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Trong nền kinh tế
thị trường, vốn được quan niệm là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và trong các quá
trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp. Như vậy vốn là yếu tố số một của hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Vốn có các đặc trưng cơ bản là: thứ nhất, vốn phải đại diện cho một lượng tài sản
nhất định, có nghĩa là vốn được biểu hiện bằng giá trị của tài sản hữu hình và vô
hình của doanh nghiệp. Thứ hai, vốn phải vận động sinh lời, đạt được mục tiêu
kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ ba, vốn phải được tích tụ và tập trung đến một
lượng nhất định, có như vậy mới có thể phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất

1.3.Vai trò của vốn đối với các doanh nghiệp nhà nước.
Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh, dù bất kỳ quy mô nào cũng cần phải có
một lượng vốn nhất định, nó là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của các doanh
nghiệp.
Về mặt pháp lý: DNNN khi muốn thành lập, điều kiện đầu tiên là doanh nghiệp
phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó tối thiểu phải bằng lượng vốn
pháp định (lượng vốn tối thiểu mà pháp luật qui định cho từng loại DNNN). Khi
đó địa vị pháp lý của doanh nghiệp mới được xác lập. Ngược lại, việc thành lập
doanh nghiệp không thể thực hiện được. Theo điều 4- chương II Quy chế quản lý
Tài chính và Hạch toán kinh doanh đối với DNNN, nếu trong quá trình hoạt động
kinh doanh, vốn điều lệ của doanh nghiệp không đạt điều kiện mà pháp luật quy
§Ò ¸n m«n häc

- 5 - định, tức là thấp hơn tổng mức vốn pháp định của các ngành nghề mà doanh
nghiệp đó kinh doanh thì cơ quan có thẩm quyền quyết định thành lập doanh
nghiệp đó phải cấp bổ sung vốn điều lệ cho doanh nghiệp, hoặc giảm ngành nghề
kinh doanh cho doanh nghiệp hoặc phải tuyên bố chấm dứt hoạt động như: phá
sản, giải thể, sát nhập
(2)
…. Như vậy, vốn có thể được xem như là điều kiện tiên
quyết đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp nhân của doanh nghiệp trước pháp luật.
Về mặt kinh tế: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là một trong những
yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Vốn không
những đảm bảo khả năng mua sắm máy móc thiết bị, dây truyền công nghệ để
phục vụ cho qu
1
á trình sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh

nhất. (Điều 11-NĐ59/CP-3/10/1996)
Để huy động vốn doanh nghiệp cũng cần phải xem xét thực trạng tình hình tài
chính, chiến lược tài trợ, chủ nguồn tài chính, cũng như kế hoạch huy động tài
chính cho chi trả.
DNNN có thể huy động vốn qua nguồn cung ứng nội bộ và huy động từ bên
ngoài.
Nguồn cung ứng nội bộ là phương thức tự cấp vốn của doanh nghiệp. Một là,
nguồn khấu hao tài sản cố định. Trong qúa trình sử dụng thì tài sản cố định
chuyển dần giá trị vào thành phẩm dưới hình thức khấu hao. Số khấu hao này
được sử dụng để khôi phục tài sản cố định nhằm tái sản xuất hoặc sử dụng cho
các yêu cầu kinh doanh của doanh ghiệp. Doanh nghiệp trích khấu hao theo
nguyên tắc bảo đảm bù đắp cả hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình của tài sản.
Hai là, từ các khoản doanh nghiệp phải nộp ngân sách nhưng được nhà nước cho
phép để lại doanh nghiệp bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh. Ba là, tích luỹ tái
đầu tư, đây là phần lợi nhuận không chia để lại doanh nghiệp nhằc mục đích đầu
tư phát triển sản xuất. Có thể nói rằng phần này được các doanh nghiệp coi là
nguồn tự cung ứng tài chính quan trọng vì nó có các ưu điểm cơ bản sau: doanh §Ò ¸n m«n häc

- 7 - nghiệp có thể hoàn toàn chủ động, giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung ứng, giúp
doanh nghiệp tăng tiềm lực tài chính nhờ giảm tỷ lệ nợ/vốn….Bốn là, điều chỉnh
cơ cấu tài sản, phương thức này tuy không làm tăng số vốn sản xuất kinh doanh
nhưng lại có tác dụng lớn trong việc tăng vốn cho các hoạt động cần thiết trên cơ
sở giảm vốn ở những nơi không cần thiết. Do môi trường kinh doanh thường
xuyên biến động, nhiệm vụ kinh doanh thay đổi nên trong kinh doanh luôn diễn

này cung ứng một lượng vốn lớn cho DNNN. Bên cạnh đó để thực hiện hình thức
này đòi hỏi doanh nghiệp phải có uy tín lớn, kiên trì đàm phán, chấp nhận các thủ
tục ngặt nghèo. Trong quá trình sử dụng vốn doanh nghiệp phải tính toán trả nợ
ngân hàng theo đúng tiến độ kế hoạch. Mặt khác doanh nghiệp vay vốn ngân
hang thương mại có thể bị ngân hàng thương mại đòi quyền kiểm soát các hoạt
động của doanh nghiệp trong thời gian cho vay. Thứ tư, là tín dụng thương mại
từ nhà cung cấp, đó là hình thức chiếm dụng hợp pháp vốn của các nhà cung ứng
và của khách hàng. Có các hình thức tín dụng thương mại chủ yếu là: doanh
nghiệp mua máy móc, thiết bị theo phương thức trả chậm . Vốn khách hàng ứng
trước. Tuy nhiên, kinh doanh trong nền kinh tế hiện nay đòi hỏi doanh nghiệp
phải tính toán, cân nhắc cẩn thận vì không phải chỉ tồn tại lượng vốn nhất định
khách hàng đặt cọc trước mà bên cạnh đó lại tồn tại lượng tiền khách hàng chiếm
dụng lại khi mua hàng của doanh nghiệp nhiều khi là rất lớn. Thứ năm, là tín
dụng thuê mua. Hiện nay có hai hình thức chủ yếu là thuê tài chính và thuê hoạt
động. Trong kinh tế thị trường phương thức tín dụng thuê mua được thực hiện
giữa một doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng máy móc, thiết bị với một doanh
nghiệp thực hiện chức năng thuê mua diễn ra khá phổ biến. Thứ sáu là, doanh
nghiệp có thể huy động vốn thông qua liên doanh, liên kết với các tổ chức cá
nhân trong và ngoài nước. Phương thức này sẽ huy động được một lượng vốn lớn
cần thiết cho một số hoạt động nào đó mà không làm tăng nợ, nhưng phương thức
này cũng có những hạn chế nhất định, chẳng hạn như phải chia sẻ lợi nhuận cho
§Ò ¸n m«n häc

- 9 - bên liên doanh . Ngoài ra doanh nghiệp có thể huy động vốn nước ngoài khác như
vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn từ các tổ chức và cá nhân nước ngoài hay
thông qua các hình thức đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) và nguồn vốn ODA.
Huy động vốn từ bên ngoài tuy cung cấp một lượng vốn lớn cho doanh nghiệp.

thực hiện sản xuất kinh doanh. Kết quả thu được càng cao so với chi phí bỏ ra thì
hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Do đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là điều
kiện quan trọng để doanh nghiệp phát triển vững mạnh. Nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn của doanh nghiệp phải đảm bảo các điều kiện sau:
- Phải khai thác nguồn vốn một cách triệt để nghĩa là không để vốn nhàn rỗi mà
không sử dụng, không sinh lời.
- Phải sử dụng vốn một cách hợp lý và tiết kiệm
- Phải quản trị vốn một cách chặt chẽ nghĩa là không để vốn bị sử dụng sai mục
đích, không để vốn thất thoát do buông lỏng quản trị.
Ngoài ra doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng
vốn để nhanh chóng có biện pháp khắc phục những mặt hạn chế và phát huy
những ưu điểm của doanh nghiệp trong quản trị và sử dụng vốn.

3.2. các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
3.2.1.Các chỉ tiêu đánh giá tổnh hợp
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp một cách chung nhất người
ta thường dùng một số chỉ tiêu tổng quát như: hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn,
doanh lợi vốn, doanh lợi vốn chủ sở hữu. Trong đó: Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn =

Doanh thu

Tổng số vốn sử dụng bình quân
trongkỳ
§Ò ¸n m«n häc

- 11 -


k
ỳLợi nhuận

V

n ch

s

h

u bình quân trong
§Ò ¸n m«n häc

- 12 - vốn của doanh nghiệp được phân làm hai loại là vốn cố định(VCĐ) và vốn lưu
động(VLĐ). Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm đến việc đo lường hiệu
quả sử dụng vốn của tổng nguồn vốn mà còn chú trọng đến hiệu quả sử dụng của
từng bộ phận cấu thành nguốn vốn của doanh nghiệp đó là VCĐ và VLĐ.

3.2.2.Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
Để đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ người ta sử dụng những chỉ tiêu sau: Hiệu suất sử dụng VCĐ =


- 13 - Khi phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ người ta thường dùng các chỉ tiêu
sau:

Hiệu suất sử dụng VLĐ = Chỉ tiêu này cho biết một đồng VLĐ Sử dụng bình quân trong kỳ tạo ra được bao
nhiêu đồng doanh thu thuần. Sức sinh lợi của VLĐ = Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng VLĐ tham gia vào hoạt động sản xuất kinh
doanh trong kỳ thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận, Chỉ tiêu này càng lớn
càng tốt.
Đồng thời, để đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ người ta cũng đặc biệt quan tâm
đến tốc độ luân chuyển VLĐ, vì trong quá trình sản xuất kinh doanh,VLĐ không
ngừng vận động qua các hình thái khác nhau. Do đó đẩy nhanh tốc độ luân
chuyển VLĐ sẽ góp phần giải quyết về nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Để xác định tốc độ luân chuyển VLĐ người ta sử
dụng các chỉ tiêu sau:

Số vòng quay của VLĐ =

Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết cho VLĐ quay được một vòng, thời gian
của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển của VLĐ càng lớn và
làm rút ngắn chu kỳ kinh doanh, vốn quay vòng hiệu quả hơn.

3.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của DNNN trong cơ chế
thị trường.
Các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh thường đặt ra nhiều mục
tiêu và tuỳ thuộc vaò giai đoạn hay điều kiện cụ thể mà có những mục tiêu được
ưu tiên thực hiện, nhưng tất cả đều nhằm mục đích cuối cùng là tối đa hoá giá trị
tài sản của chủ sở hữu, đạt được mục tiêu đó doanh nghiệp mới có thể tồn tại và
phát triển được.
Một doanh nghiệp muốn thực hiện tốt mục tiêu của mình thì phải hoạt động kinh
doanh có hiệu quả. Trong khi đó yếu tố tác động có tính quyết định đến hiệu quả
sản xuất kinh doanh chính là hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Do vậy
doanh nghiệp cần phải có những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn,
đặc biệt trong điều kiện hiện nay.
Thời gian của một kỳ phân tích Số vòng quay của VLĐ trong kỳ
§Ò ¸n m«n häc

- 15 - Trước đây trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, DNNN coi nguồn vốn cấp
phát từ ngân sách nhà nước đồng nghĩa với “cho không”, nên khi sử dụng nhiều
doanh nghiệp không cần quan tâm đến hiệu quả, kinh doanh thua lỗ đã có Nhà
nước bù đắp. Điều đó gây ra tình trạng vô chủ trong quản trị và sử dụng vốn dẫn

góp cho ngân sách Nhà nước.
Như vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp không những
đem lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp và người lao động mà nó còn ảnh
hưởng đến sự phát triển của cả nền kinh tế và toàn xã hội. Do đó, các doanh
nghiệp phải luôn tìm ra các biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
của doanh nghiệp.

HÁI QUÁT THỰC TRẠNG TẠO VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TRONG
CÁC DNNN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường.
Trong đường lối cải cách và phát triển của nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước
đã khẳng định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần trong đó khu
vực kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, và do đó các DNNN là lực lượng kinh
tế chủ lực, là xương sống cho nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế thị trường
Nhà nước có thể điều tiết và thúc đẩy gián tiếp vào nền kinh tế thông qua các
chính sách vĩ mô hay tác động trực tiếp thông qua các DNNN đầu tư vào các
ngành để sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu của xã hội.
DNNN là bộ phận quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, đóng góp nguồn lực
tài chính cho Nhà nước. Hiệu quả hoạt động của DNNNcó ý nghĩa quyết định
§Ò ¸n m«n häc

- 17 - trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiên đại hoá đất nước, trong quá trình hội nhập
thương mại với các nước khu vực, với Châu á và thế giới.

hành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, thu hút vốn đầu tư nước
ngoài, đồng thời là nhân tố để nâng cao chất lượng sản phẩm hướng tới xuất khẩu
nhằm hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
Tuy vai trò các DNNN là hết sức quan trọng, nhưng nhìn nhận một cách khách
quan thì DNNN chưa đủ tầm để cạnh tranh với nền kinh tế khu vực.

2.Thực trạng vốn, tạo vốn và sử dụng vốn trong các DNNN
2.1.Đánh giá chung
2.1.1. Thời kỳ trước đổi mới kinh tế.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập chung bao cấp, DNNN tồn tại dưới hình thức các
xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước đã hình thành một mạng lưới thống nhất trên
khắp địa bàn cả nước, từ trung ương đến cơ sở. Các xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà
nước thâm nhập vào mọi lĩnh vực, sản xuất kinh doanh hầu hết mọi sản phẩm
hàng hóa, dưới hình thức chỉ tiêu, định mức của nhà nước. Thích ứng với thời kỳ
này, vốn của xí nghiệp đều do ngân sách nhà nước cấp. Thực hiện nguyên tắc cấp
phát, giao nộp ngân sách, các xí nghiệp không tự khai thác và huy động vốn để
đảm bảo vốn kinh doanh, dẫn đến tình trạng các xí nghiệp không quan tâm đến
việc bảo toàn và phát triển vốn. Vốn của xí nghiệp thất thoát nghiêm trọng, nhiều
xí nghiệp lãi giả, lỗ thật và báo cáo sai lệch trong hạch toán kinh doanh.

2.1.2. Thời kỳ đổi mới kinh tế từ 1986 đến nay.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản trị điều tiết của nhà nước, các
DNNN được tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Từ đây vấn đề vốn trở thành vấn
đề sống còn của mỗi DNNN.
§Ò ¸n m«n häc

- 19 - Trong thời kỳ 1986 – 1990, các DNNN được hình thành trên quy mô rộng lớn cả

nhiên qui mô vốn còn nhỏ bé và dàn trải. Năm 1994 vốn bình quân cho một
DNNN chỉ khoảng 3,3 tỷ đồng, năm 1996 tăng lên 11 tỷ đồng, năm 1998 tăng lên
18 tỷ đồng và hiện nay khoảng 22 tỷ đồng. Như vậy tốc độ tăng bình quân hàng
năm từ năm 1996 đến nay khoảng 19%. So với tốc độ tăng bình quân giai đoạn
1994 – 1998 có sự giảm sút (giai đoạn 1994 – 1998 tăng bình quân 52,8%)
Tồng nguồn vốn kinh doanh của khu vực DNNN năm 1996 khoảng 67.100 tỷ
đồng, đến năm 1998 khoảng gần 100.000 tỷ đồng và hiện nay tăng lên gần
117.000 tỷ đồng. Tốc độ tăng bình quân hàng năm chỉ đạt dưới 15%. So với giai
đoạn 1991-1994 tốc độ tăng bình quân giảm sút nhiều (giai đoạn 1991-1994 tăng
bình quân 29%)
Đối với tổng công ty nhà nước, vốn nhà nước bình quân của tổng công ty 91 năm
1998 là 3.661 tỷ đồng (tương đương 260 triệu USD). Năm 1999 tăng lên 3900 tỷ
đồng (tương đương 280 triệu USD). Năm 1998 trong số 17 tổng công ty 91 có tới
14 tổng công ty (chiếm 82%) có mức vốn nhà nước dưới mức vốn bình quân.
Năm 1999 các tổng công ty nắm giữ 66% về vốn. Trong đó riêng 17 tổng công ty
91 đã chiếm tới 56% tổng số vốn kinh doanh.
Với tổng công ty 90 hình thành vốn còn kém xa so với các tổng công ty 91. Hơn
20% số tổng công ty 90 năm 1998 có vốn nhà nước bình quân dưới 100 tỷ đồng,
trong đó ở 13 tổng công ty vốn từ ngân sách cấp cho mỗi tổng công ty chỉ được
dưới 40 tỷ đồng. Sang năm1999 tình hình cũng không có nhiều tiến triển. Vốn
nhà nước bình quân trong các tổng công ty 90 chỉ khoảng dưới 153 tỷ đồng. Như
vậy có thể nói vốn trong các tổng công ty hiện nay còn quá nhỏ bé không tương
xứng với tầm vóc của nó.
Mặc dù qui mô vốn của các DNNN nhỏ bé như vậy, nhưng số vốn lại không tập
trung mà dàn trải, manh mún. Lượng vốn phân bổ trong từng doanh nghiệp rất
§Ò ¸n m«n häc

- 21 -

- 22 - g phân bổ nguồn vốn của các DNNN
năm 1998-1999

Tỷ trọng doanh nghiệp
STT Số lượng vốn
Năm 1998 Năm 1999
1 Dưới 5 tỷ đồng 72,5% 65,45%
2 Từ 5-10 tỷ đồng 7,5% 13,66%
3 Trên 10 tỷ đồng 20% 20,89%

(Nguồn: Tạp chí Tài chính doanh nghiệp số 2/2000 và Tạp chí Con số và sự
kiện số 6/2000)
Qua bảng trên cho thấy, số DNNN có vốn dưới 5 tỷ đồng còn chiếm tỷ lệ quá lớn.
Năm 1998 chiếm tới 72,5%, năm 1999 mặc dù có giảm nhưng vẫn chiếm 65,45%,
trong đó số DNNN có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm gần 26%. Riêng số DNNN do
địa phương trực tiếp quản trị, số DNNN có vốn dưới 1 tỷ đồng (tương đương
70.000 USD) chiếm trên 30%. Số DNNN có vốn trên 10 tỷ đồng chiếm một tỷ lệ
nhỏ chỉ khoảng 20% năm 1998 và tăng lên 20,89% năm 1999.
Quy mô vốn đã nhỏ bé, dàn trải, cơ cấu vốn kinh doanh lại có nhiều bất cập. Năm
1997 vốn nhà nước mới chỉ đáp ứng được 20% nhu cầu vốn lưu động gây khó
khăn cho doanh nghiệp. Trong năm 1997 vốn bình quân mỗi DNNN khoảng trên
17 tỷ đồng, trong đó VLĐ chiếm 20%, nhưng có tới 50% là vật tư ứ đọng, kém
phẩm chất, công nợ khó đòi và lỗ, chỉ còn lại 10% cho hoạt động. VCĐ chiếm
80%, nhưng phần lớn là tài sản cố định cũ, lạc hậu năng suất thấp, thiết bị cũ
kỹ.…Như vậy VLĐ còn thiếu khoảng 20% mới đạt mức tối thiểu về VLĐ hoạt
động. VCĐ lại chiếm tỷ lệ quá lớn làm cho đồng vốn bị ứ đọng và quay vòng

nghiệp bị lỗ có chiều hướng gia tăng, tỷ trọng doanh nghiệp bị lỗ của Thành phố
vẫn còn nhiều. Điều đó được thể hiện ở bảng sau:
§Ò ¸n m«n häc

- 24 - Tình hình hoạt động của các DNNN thuộc Thành phố Hà nội
1995 1996 1997 1998 Loại
doanh
nghiệp
TW TP TW TP TW TP TW TP
1.DNcó lãi 468 273 465 251 481 258 241
2.DNhoà
vốn
18 15 15 28 36 38 13
3.DN bị lỗ 48 36 52 47 35 32 43

(Nguồn:Tạp chí kinh tế và phát triển số 38/2000)
Qua bảng trên cho ta thấy các DNNN do trung ương(TW) quản lý có hiệu quả
kinh doanh cao hơn các DNNN do Thành phố quản lý. Các DNNN làm ăn thua lỗ
có xu hướng giảm đối với các DNNN do TW quản lý, nhưng lại có xu hướng tăng
đối với các DNNN do Thành phố quản lý.
Trong một số năm gần đây, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung, hiệu quả sử
dụng vốn nói riêng có xu hướng giảm xuống. Năm 1995, một đồng vốn Nhà nước
tạo ra được 3.46 đồng doanh thu và 0.19 đồng lợi nhuận. Năm 1998, các chỉ tiêu
tương ứng chỉ đạt 2.9 đồng và 0.14 đồng. Thậm chí trong ngành công nghiệp, một
đồng vốn chỉ tạo ra được 0.024 đồng lợi nhuận.
Hiệu quả sử dụng vốn giảm xuống đi kèm với nó là tốc độ tăng trưởng của các
DNNN cũng giảm dần.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status