Báo cáo tốt nghiệp Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Phát triển hoạt động cho thuê tài chính - Pdf 10



Báo cáo tốt nghiệp Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Phát triển hoạt động cho
thuê tài chính
mục lục
Lời nói đầu 4
Chương I: Hoạt động cho thuê tại các công ty cho thuê tài chính 6
1.1. Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ cho thuê tài sản 6
1.2. Phương pháp giao dịch cho thuê tài sản 10
1.2.1.Phân loại các phương thức cho thuê 10
1.2.2. Các loại hợp đồng cho thuê 14
1.3. Điều kiện thực hiện nghiệp vụ cho thuê 20
1.3.1.Về khía cạnh kinh tế 20

2.5.1. Những kết quả đạt được 56
2.5.2. Những hạn chế trong hoạt động cho thuê ở Công ty cho thuê tài chính I 59
Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động cho
thuê ở Công ty cho thuê tài chính I - Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn
Việt Nam 66
3.1. Định hướng phát triển nghiệp vụ cho thuê ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Việt Nam 66
3.2. Khả năng phát triển nghiệp vụ cho thuê ở Công ty cho thuê tài chính I 68
3.2.1. Thị trường cho thuê của Công ty cho thuê tài chính I 68
3.2.2. Các loại tài sản dùng để cho thuê 68
3.2.3. Thị trường cho thuê 69
3.2.4. Khả năng tài chính của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam 69
3.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê ở Công ty
cho thuê tài chính I 71
3.3.1. Mở rộng mô hình tổ chức 71
3.3.2. Xây dựng chiến lược khách hàng 72
3.3.3. Thiết lập chủng loại tài sản cho thuê thích hợp 73
3.3.4. Mở rộng địa bàn cho thuê 74
3.3.5. Đa dạng hoá nghiệp vụ cho thuê 75
3.3.6. Xây dựng và hoàn thiện nghiệp vụ cho thuê 77
3.3.7. Xây dựng chiến lược đào tạo phát triển nguồn nhân lực 80
3.3.8. Trang bị đầy đủ cơ sở vật chất cho công ty 81
Kết luận 82
Tài liệu tham khảo 83

chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng cả về chính trị cũng như về kinh tế. Đặc
biệt trong những năm 90, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc, tốc độ
tăng trưởng hàng năm cao duy trì ở mức 8%, tỷ lệ lạm phát được kiềm chế dưới 10%, đời
sống nhân dân ngày càng được cải thiện.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam diễn ra vào tháng
4/2001 có ý nghĩa rất to lớn, mở ra một thời kì mới phát triển đất nước trong những thập kỷ
đầu của thế kỷ XXI.
Đường lối kinh tế của Đảng ta trong thời gian tới là: đẩy mạnh Công nghiệp hóa- Hiện
đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp.
Các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm (2001- 2005) là nhịp độ tăng trưởng GDP bình
quân hàng năm là 7,5%. Tổng GDP năm 2005 gấp hai lần năm 1995, tăng tỷ trọng nông
lâm- ngư nghiệp là 20- 21%, công nghiệp và xây dựng 38- 39%, các ngành dịch vụ 41- 42%.
Về quan hệ sản xuất, Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc
dân.
Như vậy, để thực hiện được những mục tiêu đề ra, nhu cầu về vốn của toàn bộ nền kinh
tế là vô cùng lớn, ước tính vốn trung bình mỗi năm cho kế hoạch 5 năm tới cần khoảng 30-
35 tỷ USD. Do đó, việc tìm ra giải pháp để huy động tối đa nguồn vốn cho đầu tư phát triển
trở thành một nhiệm vụ quan trọng hiện nay không chỉ của Nhà nước, của ngành ngân hàng
mà còn là của toàn dân. Bên cạnh các kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp Việt Nam
đang sử dụng như vay, phát hành cổ phiếu, trái phiếu thì hiện nay chúng ta đang áp dụng
loại hình tín dụng mới, đó là cho thuê tài chính.
Công ty cho thuê tài chính I- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 1998, là một bước tiến quan trọng của Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong việc đa dạng hoá các loại hình tín
dụng, thúc đẩy hoạt động của thị trường cho thuê nói riêng và thị trường vốn nói chung tại
Việt Nam nhằm giải quyết vấn đề thiếu vốn của các doanh nghiệp trong nước
Chương I:
Hoạt động cho thuê tại các công ty cho thuê tài chính

1.1. Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ cho thuê tài sản.
Hình thức tài trợ thông qua cho thuê tài sản đã có lịch sử khá lâu đời và diễn ra trong
hầu hết mọi lĩnh vực hoạt động kinh doanh, thuộc nhiều lĩnh vực trên thế giới. Theo các thư
tịch cổ, các giao dịch cho thuê tài sản đã xuất hiện từ năm 2800 trước Công nguyên tại thành
phố Sumerian. Các thầy tu giữ vai trò người cho thuê, người thuê là những nông dân tự do.
Tài sản được đem ra giao dịch bao gồm: công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật kéo, nhà cửa,
đất ruộng
Vào khoảng năm 1700 tr.C.N, vua Babilon là Hamnurabi đã ban hành nhiều văn bản
quan trọng tạo thành một bộ luật lớn, trong đó có đưa ra những quy định về hoạt động cho
thuê tài sản.
Trong các nền văn minh cổ đại khác như Hy Lạp- La Mã hay Ai Cập cũng đã xuất
hiện các hình thức cho thuê để tài trợ cho việc sử dụng đất đai, gia súc, công cụ sản xuất. Có
thể nói rằng, rất nhiều vấn đề mà các giao dịch thuê mua ngày nay đã gặp phải đã được giải
quyết từ nhiều thế kỉ trước.
Tuy nhiên, các giao dịch thuê tài sản thời cổ thuộc hình thức thuê mua kiểu truyền
thống (Traditional Lease). Phương thức giao dịch của hình thức này tương tự như phương
thức thuê vận hành ngày nay và trong suốt lịch sử hàng ngàn năm tồn tại của nó, đã không
có sự thay đổi lớn về tính chất giao dịch.
Đầu thế kỉ XIX, hoạt động thuê mua đã có sự gia tăng đáng kể về số lượng và chủng
loại thiết bị, tài sản cho thuê. Đến đầu thập niên 50 của thế kỉ XX, giao dịch thuê mua đã có
những bước phát triển nhảy vọt, nhất là tại Hoa Kì. Nguyên nhân của sự phát triển này là do
sự hoạt động thuê mua đã có những thay đổi về tính chất của giao dịch.

các loại máy móc thiết bị cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Như vậy, hoạt động cho thuê tài sản được thể hiện trước hết ở thoả thuận thuê tài sản
là thoả thuận mà theo đó, người cho thuê chuyển quyền sử dụng tài sản sang người thuê
trong một thời gian nhất định, được thoả thuận trước để nhận được những khoản tiền thuê.
Một thoả thuận thuê tài sản phải có những đặc điểm sau:
* Thời gian cho thuê là trung hoặc dài hạn, chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài
sảnvà không thể huỷ ngang theo ý muốn của một bên.
* Trong suốt thời gian diễn ra hoạt động cho thuê tài sản, quyền sở hữu pháp lý đối
với tài sản thuộc về người cho thuê, và quyền sử dụng tài sản thuộc về người thuê. Phần lớn
các chi phí bảo trì, bảo hiểm, rủi ro, thuế và các lợi ích phát sinh trong quá trình sử dụng tài
sản được chuyển từ người cho thuê sang người thuê.
* Trong khoản tiền thuê mà người thuê trả cho người cho thuê theo định kỳ bao gồm
tiền vốn gốc, tiền lãi tín dụng, phần lợi nhuận hợp lý và các chi phí quản lý khác. Do đó,
giống như hình thức tín dụng Ngân hàng, hoạt động cho thuê tài sản cũng mang tính hoàn
trả, tính thời hạn và lãi suất. Như vậy về thực chất, hoạt động cho thuê tài sản (leasing) là
một hình thức tài trợ nếu xét từ phương diện người cho thuê.
Như vậy, có thể định nghĩa hoạt động cho thuê tài sản dựa vào Nghị định số 16/2001/
NĐ- CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính là “ Cho thuê
tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết
bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên
cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận
chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với
các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt
thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận”. Có thể nhận rõ hình thức này qua việc so sánh
giữa cho thuê tài sản và thuê mua trả góp thông qua bảng so sánh sau:

Tiêu thức Cho thuê tài sản Thuê mua trả góp

mới công nghệ kịp thời.
Thuộc quyền người cho thuê
và có thể được chuyển giao
cho người thuê.
Tổng số tiền thuê.
Bao gồm tất cả các loại tài
sản và có thế chấp hoặc
không có thế chấp.
Các pháp nhân và thể nhân.
Có thòi hạn trung bình từ 1
đến 5 năm.
Không được huỷ ngang hợp
đồng.
Chuyển giao cho người thuê
khi kết thúc hợp đồng.
Do người thuê thực hiện.
Tài sản được khấu hao
nhanh và không dễ bị lạc
hậu.
Chuyển giao cho người thuê
vào thời điểm kết thúc hợp
đồng.
Tổng tiền lãi và khấu hao.

Nếu chỉ xem xét về mặt thuật ngữ thôi thì ta thấy rằng đã có rất nhiều vấn đề. Khái
niệm này được chính thức đưa ra đầu tiên trong pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng
và công ty tài chính với tên gọi là "tín dụng thuê mua" nhưng không có định nghĩa. Năm


+ Phần giá trị còn lại (Residual Value Share): Theo thông lệ, tại thời điểm kết thúc giao dịch
cho thuê người cho thuê thường uỷ quyền cho người thuê làm đại lý bán tài sản. Người thuê
được phép hưởng phần tiền bán tài sản lớn hơn so với giá mà người cho thuê đưa ra, hoặc
được khấu trừ vào tiền thuê hay được coi như một khoản hoa hồng bán hàng.
Khi thời hạn cho thuê căn bản đáo hạn, người thuê có quyền lựa chọn một trong
những hình thức mua lại tài sản với giá trị hợp lý hay giá tượng trưng tuỳ theo sự thoả thuận
đã được dự liệu trước trong hợp đồng – hoặc người thuê cũng có thể tiếp tục thuê tài sản
hoặc nhận làm đại lý bán tài sản đó tuỳ theo sự uỷ quyền của người cho thuê. Phương thức
cho thuê được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 1.1 Phương thức cho thuê
1.2.1. Phân loại các phương thức cho thuê tài sản:
Nhằm so sánh những đặc điểm của các phương thức thuê tài sản với nhau để từ đó
giúp các bên có liên quan dễ dàng phân loại, nhận diện giao dịch thuộc phương thức thuê
nào để áp dụng các quy chế hạch toán, kế toán, hưởng các ưu đãi (nếu có) và quản lý chúng
(đối với các cơ quan Nhà nước) theo những quy chế đã được Nhà nước quy định. Trong hình
thức thuê tài sản có hai phương thức cho thuê vận hành và cho thuê tài chính hay còn gọi là
thuê ngắn hạn và thuê dài hạn. Bởi cho thuê vận hành là hình thức cho thuê kiểu truyền

v
ới
Tr

ti
ền
mu
a

Giao
tài
sản
Bảo
trì

phụ
tùn
g
tha
y
Trả
ti
ền
Bảo
trì

phụ
tùng
Nhà cung cấp
Quyền sở hữu

Thời hạn thuê

Quyền huỷ ngang
hợp đồng
Rủi ro

Chi phí bảo trì, dịch
vụ và mua bảo hiểm

Ưu đãi về thuế

Bồi thường bảo
hiểm
Cung ứng tài sản
thuê. Tiền bán tài sản.
Tách biệt quyền sở hữu pháp lý
và quyền sử dụng
Rất ngắn so với đời sống hữu

vận hành, bảo trì, dịch vụ, phí
bảo hiểm.
Tương tự như thuê vận hành.

Người cho thuê hưởng
Tài sản cho thuê thường do
người thuê đặt hàng, giao nhận
và sử dụng.
Phần tiền bán tài sản lớn hơn so
với giá quy định của người cho
thuê được chuyển cho người
thuê hưởng như một khoản hoa
_ong bán hàng hay được khấu
10

Các loại tài sản
thường sử dụng
trong giao dịch.

Máy photocopy, máy vi tính, xe
ôtô, đồ đạc trong nhà, văn
phòng….
trừ vào tiền thuê.
Bất động sản, xe lửa, tàu biển,
máy bay, thiết bị văn phòng… Trên cơ sở các tiêu chuẩn phân loại theo IAS 17 của IASC, mỗi quốc gia đều có những
quy định cụ thể trong luật thuê mua của họ dựa trên cơ sở những điều kiện của mỗi nước.
Những quy định này có những khác biệt nhất định, song về cơ bản chúng không mâu thuẫn
với IAS 17 và tuỳ theo mức độ những quy định này có thể chi tiết cụ thể hơn IAS 17.
1.2.2. Các loại hợp đồng cho thuê:
Tuỳ theo tính chất trong _ong giao dịch thuê mua mà có thể phân loại các thoả thuận
thành nhiều loại hợp đồng khác nhau.
1.2.2.1. Hợp đồng cho thuê trực tiếp:
Tài
Quyền sở hữu
được chuyển
giao khi th
ời


Trong loại hợp đồng này, người cho thuê sử dụng thiết bị của họ có sẵn trực tiếp tài
trợ cho người thuê. Người cho thuê thường là nhà sản xuất hoặc các định chế tài chính và
cũng có thể là công ty Leasing, sử dụng tài sản của họ tài trợ cho người thuê.
Đây là một hình thức tài trợ mà các nhà sản xuất thường sử dụng để đẩy mạnh tiêu
thụ sản phẩm do họ sản xuất ra .Mặt khác, nhờ luôn cập nhật những công nghệ mới để chế
tạo ra các loại máy móc, thiết bị nên các nhà sản xuất có thể mua lại những thiết bị đã lạc
h
ậu về mặt công nghệ để tiếp tục cung cấp các loại máy móc mới ,hiện đại do họ chế tạo ra.
Sơ đồ 1.3 – Hợp đồng tài trợ trực tiếp.

Người cho thuê Người thuê
1- Sử dụng các máy móc,thiết bị của chính
họ để cho thuê.
2- Đảm nhiệm toàn bộ vốn tài trợ. 3- Cung cấp các phụ tùng và dịch vụ bảo trì
cùng với thiết bị theo hợp đồng phụ.
4- Nhận các khoản tiền thuê và những hoản
tiền dịch vụ theo hợp đồng phụ.


Hay

Người
tiêu

thụ

1.2.2.2. Hợp đồng cho thuê liên kết:
Loại hợp đồng này bao gồm nhiều bên tài trợ cho người thuê. Sự liên kết này có thể xảy
ra theo chiều dọc hoặc chiều ngang tuỳ theo tính chất của loại tài sản hay khả năng tài chính
của các nhà tài trợ. Trường hợp tài sản có giá trị lớn nhiều định chế tài chính hay các nhà chế
tạo cùng chia nhau hợp tác để tài trợ cho người thuê tạo thành sự liên kết theo chiều ngang.
Còn đối với trường hợp các định chế tài chính hoặc các nhà chế tạo lớn giao tài sản cho chi
nhánh của họ (dealers) thực hiện giao dịch tài trợ cho khách hàng thì hình thành sự liên kết
theo chiều dọc ( Trust leases)
Các bước và đặc điểm trong giao dịch với người thuê của loại hợp đồng này không có
khác biệt lớn so với hình thức cho thuê thuần tuý hay điển hình.
Người cho thuê Người thuê
1/ Có thể là sự liên kết giữa các định chế tài
chính với các nhà sản xuất hay giữa công ty
mẹ với các chi nhánh.
2/ Các loại tài sản _ong trong giao dịch
thường là những loại có giá trị cao.
3/ Các công ty con chuyên kinh doanh cho
thuê có trình độ chuyên môn cao, chuyên sâu
trong _ong lĩnh vực công nghệ hay loại thiết bị


Người cho vay Người cho thuê Người thuê
1/ Cung cấp tín dụng trung và
dài hạn chiếm phần lớn giá trị tài
sản cho thuê.
2/ Nhận tiền trả nợ vay bằng tiền
thuê do người thuê trả theo yêu
cầu của người cho thuê.

3/ Khoản cho vay được đảm bảo
bằng tài sản và tiền thuê.
1/ Sở hữu chủ tài sản cho thuê
và nhận được sự miễn giảm
thuế.
2/ Mượn đối ứng phần lớn giá
trị tài sản và bảo đảm khoản
vay bằng cả tài sản cùng các
khoản tiền cho thuê nó.
3/ Trả nợ bằng tiền thuê tài
sản. Phần tiền thuê vượt quá
số tiền vay được giữ lại.
1/ Trả tiền thuê tài
sản cho người cho
thuê.

thuê
Tài sản
Tiền thuê
Người thuê

(Lessee
khắt khe mà các doanh nghiệp này khó có thể thoả mãn. Đồng thời, trong trường hợp doanh
nghiệp có nhu cầu phải duy trì năng lực sản xuất nên không thể bán bớt tài sản cố định để
chuyển thành tài sản lưu động. Do đó, hình thức bán và tái thuê có thể đáp ứng được nhu cầu
này.
Sơ đồ 1.5. Thỏa thuận bán và tái thuê. Người cho thuê Người thuê
1- Mua tài sản của người thuê và nắm


Người cho thuê
Thoả thuân mua bán tài sản

Quyền sở hữu pháp lý
Tiền mua tài sản

Quyền sử dụng tài sản

Chủ sở hữu
ban đầu Người bán
Người thuê
Trả tiền thuê

Hợp đồng thuê mua
thị trường vào thời điểm lập hợp đồng mua bán. Các loại thiết bị mới hay đă sử dụng đều có
thể được bán và tái thuê, giá của thiết bị mới thường căn cứ vào hoá đơn của nhà cung cấp,
còn giá của thiết bị đã qua sử dụng thì cần được định giá độc lập.
Những tiện ích của dịch vụ này là ngoài mục đích giải quyết nhu cầu vốn lưu động,
những công ty muốn tạo ra lợi nhuận ghi sổ hay lợi nhuận tính thuế với điều kiện giá bán tài
sản cao hơn phần khấu hao còn lại trong sổ sách cũng có thể áp dụng hình thức này.


Cho thuê tài sản và
nhận tiền thuê.
2- Các quyền lợi và
nghĩa vụ khác như
trong thoả thuận thuê
mua thuần.
1-

Thuê tài sản từ người cho
thuê.
2- Cho người thuê thứ hai thuê
lại tài sản.
3- Không chịu trách nhiệm trực
tiếp đối với các rủi ro, thiệt
hại đối với tài sản.
4- Nhận tiền thuê từ người thuê
thứ hai và trả tiền thuê cho
người cho thuê.
1-

Thuê tài sản từ người thuê
thứ nhất.
2- Trả tiền thuê cho người
thuê thứ nhất.
3- Các nghĩa vụ và quyền lợi
không khác so với nghĩa
vụ và quyền lợi của người
thuê trong thoả thuận thuê
thuần.

dụng t
ài
Tiền
Người
thuê
thứ hai
(Lessee
II )

có khả năng tài trợ thiết bị bằng nghiệp vụ cho thuê cho các doanh nghiệp có nhu cầu thuê
tài sản.

1.3.2 Về khía cạnh pháp lý:
Nghiệp vụ cho thuê được thực hiện và phát triển dựa trên một môi trường pháp lý
hoàn thiện nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động cho thuê. Ngoài những luật cơ bản chung
cho các hoạt đông của nền kinh tế, liên quan đến các hoạt động cho thuê còn có các luật như:
1.3.2.1. Các chính sách về khuyến khích đầu tư và kinh doanh:
Hầu hết các luật về khuyến khích đầu tư và kinh doanh đều đều áp dụng hình thức
miễn thuế hoặc giảm thuế hải quan đối với hàng nhập khẩu và tiêu dùng bao cấp. Do hoạt
động cho thuê làm gia tăng đáng kể đầu tư trong nước cho nên luật khuyến khích đầu tư
nên áp dụng cho hoạt động này. Sự liên quan của các luật thuế đối với việc thúc đẩy
nghiệp vụ cho thuê là ở chỗ: Liệu các luật này có phải là giải pháp trung hoà lợi ích giữa
người chủ sở hữu và người sử dụng thiết bị cho thuê hay không , tức là pháp luật có công
nhận rằng lợi ích kinh tế các thiết bị cho thuê cũng giống như lợi ích kinh tế có được của
cùng thiết bị ấy nếu được mua đứt bán đoạn và do vậy phải được hưởng các khuyến khích
bình đẳng như nhau hay không .
1.3.2.2. Pháp luật về bên cho thuê:

lý và toàn bộ cơ sở pháp luật cho phép nghiệp vụ cho thuê trở thành biện pháp tài trợ hiệu
quả và cạnh tranh được về mặt chi phí. Có thể ban hành "Luật Cho thuê Tài chính" vì nó xác
định rõ quyền hạn, nghĩa vụ của mỗi bên tham gia giao dịch cũng như xác định chức năng
quản lý của Chính phủ nhằm thúc đẩy hoạt động này. Nếu Chính phủ lần đầu tiên đưa ra
hoạt động cho thuê thiết bị vào nền kinh tế và nếu cơ sở pháp lý cơ bản liên quan đến cho
thuê không rõ ràng thì việc ban hành luật cho thuê tài chính sẽ rất có ích. Nhưng nếu đã có
một cơ sở pháp lý lành mạnh hay có thể sửa đổi ngay được các luật không cần phải có luật
cho thuê tài chính cụ thể.
1.4. Những ưu thế và bất lợi trong nghiệp vụ cho thuê :
Mặc dù hoạt động cho thuê có rất nhiều ưu điểm và cũng nhận thấy rằng cho thuê là
hình thức tài trợ máy móc, thiết bị duy nhất cho các nghiệp vụ mà thị trường vốn còn chưa
phát triển, mặt khác khi đó cần có sự phát triển của hệ thống ngân hàng- tài chính ở một
trình độ nhất định. Song bên cạnh đó, hoạt động này cũng không thể dấu đi những hạn chế
nảy sinh (do điều kiện khách quan hay chủ quan mang lại) cụ thể là:
1.4.1. Đối với bên đi thuê:
Ưu thế:
- Hạn chế sự lạc hậu của máy móc và thiết bị
Do thời gian đi thuê ngắn hơn thời gian hữu dụng của máy móc, thiết bị, vì vậy, nghiệp
vụ cho thuê có thể giúp các doanh nghiệp tránh được sự lạc hậu và lỗi thời của máy móc,
thiết bị trong sự phát triển không ngừng của công nghệ hiện nay.
- Được tài trợ với tỷ lệ cao và đến mức tài trợ toàn bộ cho chi phí mua sắm máy móc
thiết bị.
Việc tài trợ cho thuê được bảo đảm bởi chính bản thân máy móc thiết bị cho thuê.
Nghĩa là, nó cho phép người cho thuê dễ dàng lấy lại máy móc, thiết bị trong trường hợp
hợp đồng bị vi phạm. Do vậy, doanh nghiệp thường không cần phải đặt tiền gửi hoặc thanh
toán trước đối với tài sản đi thuê. Tuy nhiên, trong những trường hợp có mức độ rủi ro cao
thì phải đặt cọc hoặc ký quỹ một khoản tiền. Nhưng những doanh nghiệp như vậy sẽ gặp

Các khoản tiền thuế phải nộp hàng năm được tính vào chi phí của doanh nghiệp. Do đó
chúng làm giảm thu nhập tính thuế của doanh nghiệp bằng chính những khoản chi phí đó.
Khoản chi phí này được nhân với tỷ lệ chiết khấu sau thuế của doanh nghiệp và nhân với lãi
suất cho vay của ngân hàng, sẽ cho ta biết tỷ lệ tiết kiệm do hoãn thuế bởi thuê mua mang
lại cho doanh nghiệp.
Ví dụ: Tổng số tiền thuế phải nộp của doanh nghiệp hàng năm là 50 triệu đồng, mức
thuế thu nhập doanh nghiệp là 32%, lãi suất ngân hàng là 12%. Khoản tiền tiết kiệm được
do hoãn thuế là:
50 *[ 12% (1-0.32)] = 4.08 triệu
Như vậy, doanh nghiệp đã tiết kiệm được 4.08 triệu đồng do chậm nộp thuế lợi tức để sử
dụng chúng vào đầu tư cho sản xuất kinh doanh mà không phải đi vay và không phải trả lãi
suất vay.

- Thanh toán tiền thuê linh hoạt:

Trích đoạn Mở rộng mô hình tổ chức Mở rộng địa bàn cho thuê Xâydựng chiến lược đào tạo phát triển nguồn nhân lực
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status