Tài liệu Báo cáo " Những đặc điểm cơ bản của trường phái lý luận chính trong khoa học luật hình sự trên thế giới" - Pdf 10



nghiên cứu - trao đổi
tạp chí luật học - 5

Những đặc điểm cơ bản của các
trờng phái lí luận chính trong
khoa học luật hình sự trên thế giới

TS. Lê Cảm *
rong giai đoạn hiện nay, khi nghiên
cứu những vấn đề của khoa học luật
hình sự, chúng ta cần phải lu ý rằng,
mặc dù việc soi sáng những đặc điểm cơ
bản của các trờng phái lí luận chính
trong khoa học luật hình sự trên thế giới
là vấn đề rất cần thiết nhằm làm phong
phú và sâu sắc hơn kiến thức cũng nh sự
hiểu biết của các nhà luật học nớc ta về
các trờng phái đó (từ sự xuất hiện, ngời
đại diện cho luận điểm cơ bản của từng
trờng phái tơng ứng đợc nghiên cứu)
nhng trong sách báo pháp lí Việt Nam
vẫn cha hề có công trình nghiên cứu nào
trong lĩnh vực luật hình sự đề cập vấn đề
đ nêu. Đó chính là ý nghĩa khoa học -
nhận thức quan trọng luận chứng cho tính
cấp thiết của đề tài đợc nghiên cứu trong
bài báo này của chúng tôi.
1. Các trờng phái lí luận chính
trong khoa học luật hình sự trên thế

hình thành và phát triển của pháp luật
châu Âu nói chung.
1.2. Cùng với thời gian, trong các
trờng phái khoa học luật hình sự tại các
nớc châu Âu đ dần dần xuất hiện các
công trình nghiên cứu riêng: Hà Lan (thế
kỉ XVI), Đức (thế kỉ XVII), Pháp (thế kỉ
XVIII), Nga (thế kỉ XIX) Về cơ bản,
trong giai đoạn thế kỉ XVIII - XIX,
những t tởng và quan điểm khác nhau
đợc trình bày trong các công trình
nghiên cứu về luật hình sự đ góp phần
hình thành nên các trờng phái lí luận
riêng biệt trong khoa học luật hình sự.
1.3. Nh vậy, chúng ta có thể đa ra
định nghĩa của khái niệm "trờng phái lí
luận trong khoa học luật hình sự" là hệ
thống những t tởng và những quan
T
TT
T
* Khoa luật

Trờng đại học KHXH & NV
Đại học quốc gia Hà Nội
+ Xuất hiện vào thế kỉ XVIII (sớm
hơn cả so với 3 trờng phái còn lại),
trờng phái khai sáng - nhân đạo với
những t tởng tiến bộ về luật hình sự đ
đợc nhân loại biết đến bằng một loạt các
công trình khoa học pháp lí nổi tiếng của
những ngời đại diện xuất sắc nhất trong
trào lu khai sáng ở châu Âu giai đoạn
này mà tiêu biểu là: a) ở Pháp: Những lá
th vịnh Perxíc (1721) và Tinh thần pháp
luật (1784) của S. Montesquieu
(2)
; Đề
cơng lập pháp hình sự (1773) của G.P.
Marát
(3)
; Những bình luận cho cuốn sách
về tội phạm và hình phạt (1766) và Phần
thởng vì sự công minh và nhân đạo
(1777) của Volte
(4)
. b) ở Italia: Về tội
phạm và hình phạt (1764) của Tr.
Beccaria
(5)
.
+ Là bộ phận cấu thành rất quan trọng
trong cơng lĩnh t tởng của Cách mạng
t sản Pháp vĩ đại, với Tuyên ngôn về các
quyền của con ngời và của công dân

nghĩ, khi ngời đó cha thực hiện hành vi
cụ thể nào;
- Phải hạn chế giới hạn của hành vi bị
xử phạt về mặt hình sự (nhất là trong lĩnh
vực tự do tín ngỡng);
- Hình phạt đợc tòa án quyết định nghiên cứu - trao đổi
tạp chí luật học - 7

đối với ngời phạm tội phải tơng xứng
với tội phạm mà ngời đó thực hiện và do
đó, luật hình sự cần quy định chính xác
tội phạm để thẩm phán không thể né
tránh đợc lời văn của điều luật
+ Những quan điểm cơ bản về luật
hình sự của Volte (1694 - 1778) là:
- Hoàn thiện pháp luật hình sự phải
gắn liền với việc ngăn ngừa tình trạng
phạm tội;
- Pháp luật hình sự không nên quy
định hình phạt tử hình, phải đảm bảo sự
tơng xứng giữa tội phạm và hình phạt,
giữa tính nghiêm trọng của tội phạm và
tính nghiêm khắc của hình phạt;
- Việc truy bức của nhà thờ đạo tin
lành đối với những ngời khác quan điểm
về tín ngỡng tôn giáo chính là sự truy
bức d man nhất và nó trái với lí trí của

luật không nhất thiết phải chấp hành một
cách tuyệt đối mà trái lại có thể đợc vi
phạm các đạo luật không công minh, nhất
là các đạo luật của chế độ độc tài cần
phải bị lật đổ; nếu vì sự vi phạm nh thế
mà chính quyền nào trừng phạt thì đó là
chính quyền bạo ngợc, thẩm phán kết án
tử hình là kẻ giết ngời đê tiện
+ Những quan điểm cơ bản về luật
hình sự của Tr. Beccaria (1783 - 1794) là:
- Cần phân công rõ ràng chức năng
của hai quyền lập pháp và t pháp, tức là
việc quy định trong luật hành vi nào là tội
phạm và hình phạt đối với hành vi đó ra
sao, phải và chỉ là thẩm quyền của nhà
làm luật còn việc phán xét xem một
ngời có phạm tội hay không và nếu
phạm tội thì sẽ tơng xứng với loại và
mức hình phạt cụ thể nào là thẩm quyền
của tòa án. Tòa án không thể quy định
hình phạt và đồng thời cũng không đợc
quyết định hình phạt ngoài phạm vi mà
luật đ quy định;
- Luật hình sự chỉ có thể trừng phạt
với hành vi chứ không đợc trừng phạt
với ý định hoặc những lời phát ngôn của
mọi ngời vì thớc đo duy nhất và thực sự
của tội phạm chính là thiệt hại xảy ra đối
với lợi ích của x hội;
- Cần phải xây dựng thang chung và

đạo đợc xem xét trên đây, nhất là tác
phẩm Về tội phạm và hình phạt của Tr.
Beccaria là di sản pháp lí quý báu chung
của toàn thể nhân loại - những nền tảng t
tởng đầu tiên của một số nguyên tắc
đợc thừa nhận chung của luật hình sự
quốc tế hiện đại (nh pháp chế - "nullum
crimen, nulla poena sine lege", nhân đạo,
bình đẳng trớc luật hình sự) vì cho đến
nay, mặc dù đ qua 200 năm nhng
chúng vẫn còn giữ nguyên giá trị về khoa
học cũng nh tính cấp bách về thực tiễn
và đặc biệt là có ảnh hởng đáng kể đối
với việc tiếp tục phát triển luật hình sự
trong nhà nớc pháp quyền ngày nay. Bởi
vậy, nhận xét sau đây của nhà khoa học
luật hình sự nổi tiếng của Liên Xô cũ -
giáo s, tiến sĩ F.M. Resetnhikôv về tác
phẩm trên của Tr. Beccaria có thể dùng
làm kết luận chung về toàn bộ trờng
phái khai sáng - nhân đạo trong luật hình
sự: "Lịch sử của luật hình sự và t pháp
và có lẽ là của các khoa học pháp lí khác
không có công trình nào có thể bằng đợc
tác phẩm này về sức mạnh và chiều dài
của sự tác động đối với những ngời cùng
thời và các thế hệ sau này "
(6)
. Thiết
nghĩ, sẽ không có kết luận nào xác đáng

(8)
đ kế thừa, phát triển di sản tinh
thần - pháp lí tiến bộ về luật hình sự của
trờng phái khai sáng - nhân đạo đồng
thời nâng nó lên ở tầm cao hơn để xây
dựng thành hệ thống lí luận các nguyên
tắc, chế định và các đảm bảo hiến định
của pháp chế trong lĩnh vực luật hình sự
với những t tởng và quan điểm riêng có
tính chất học thuật mà nội dung chủ yếu
nh sau:
- Nguyên tắc chỉ truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với hành vi: Bản chất của con
ngời không phải là trong ý muốn hoặc ý nghiên cứu - trao đổi
tạp chí luật học - 9

định mà là trong hoạt động của họ nên
con ngời chỉ có thể phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm mà họ thực
hiện chứ không phải phải về âm mu
hoặc ý định phạm tội (đây chính là nền
tảng t tởng mà sau này C. Mác đ phát
triển và xây dựng thành luận điểm nổi
tiếng của nguyên tắc trách nhiệm pháp lí
trên cơ sở hành vi); chỉ nên truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với hậu quả của hành
vi mà không nên căn cứ vào lỗi của ngời

ý) nh là 2 hình thức lỗi chủ yếu; phải
giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự
trên cơ sở các tiêu chí khách quan bên
ngoài (ví dụ: Mức độ trách nhiệm đối với
phạm tội cha đạt phải ít nghiêm khắc
hơn đối với tội phạm hoàn thành, khi
quyết định hình phạt đối với hành vi của
ngời xúi giục và giúp sức phải tính đến
vai trò của họ trong việc thực hiện tội
phạm).
- Nguyên tắc công minh: Tính chất
nghiêm trọng của hình phạt cần phải đợc
xác định bằng tính chất nghiêm trọng của
hành vi (về khách quan) chứ không phải
bằng ý định phạm tội của ngời có lỗi (về
chủ quan).
Theo những đại diện của trờng phái
cổ điển thì trong thợng tầng kiến trúc
của x hội bao giờ pháp luật cũng là tối
thợng, đứng trên nhà nớc và do vậy, để
loại trừ sự tùy tiện từ phía nhà nớc thì
không chỉ có công dân mà cơ quan nhà
nớc và quan chức của bộ máy nhà nớc
đều phải tuyệt đối tuân thủ pháp luật.
Dự thảo Bộ luật hình sự Bavarxki năm
1813 (ngời soạn thảo là A. Phoiơbắc) đ
trở thành mẫu cho Bộ luật hình sự Phổ
năm 1861 và sau đó là Bộ luật hình sự
Đức năm 1871 (Bộ luật hình sự Đức hiện
hành), Bộ luật hình sự Tây Ban Nha (biên

để đảm bảo việc cá thể hóa hình phạt;
thừa nhận một số tình tiết làm giảm nhẹ
lỗi Đại diện nổi tiếng của trờng phái
cổ điển mới ở Nga là giáo s N.X.
Taganxev - ngời soạn thảo một trong
những giáo trình luật hình sự xuất sắc
nhất trong sách báo pháp lí châu Âu.
4. Trờng phái xã hội học trong
khoa học luật hình sự
4.1. Việc nghiên cứu những luận điểm
luật hình sự của trờng phái x hội học
cho phép nêu lên những đặc điểm cơ bản
nh sau:
+ Xuất hiện vào những năm 80 của
thế kỉ XIX, những đại diện của trờng
phái x hội học trong khoa học luật hình
sự bao gồm một số nhà lí luận hình sự
học và x hội học đầu đàn của các nớc
châu Âu nh F. List
(9)
, Maier và Vagr
(Đức), G. Tard, Bognher và A. Lakassan
(Pháp), G. Vamel (Hà Lan), A. Prins (Bỉ),
I.Ia. Fôinhitxki (Nga). Sau đó, trờng
phái này đ lan rộng sang cả Nhật Bản và
Mĩ từ đầu thế kỉ XX. Năm 1881, một
trong các xuất bản phẩm có uy tín hơn cả
trong lĩnh vực luật hình sự và luật so sánh
của châu Âu là Tạp chí khoa học luật
hình sự đại cơng do List sáng lập đ ra

(Lakassan); một số nhà x hội học khác
còn đề nghị thay thế hình phạt bằng các
biện pháp nhằm ngăn ngừa một số loại tội
phạm (tổ chức công việc công cộng trong
thời kì đói kém hoặc mùa đông giá lạnh
để hạn chế tội trộm cắp, tổ chức đúng đắn
hợp lí việc mi dâm để chống tội phạm về
tình dục ).
- Ngoài ra, trờng phái x hội học còn
đa ra các kiến giải nhân đạo nhằm làm
cho việc trấn áp về hình sự đạt đợc sự
mềm dẻo, có hiệu quả và "tiết kiệm hình
phạt" nh: Thành lập tòa án chuyên xét
xử vụ án của ngời cha thành niên; áp
dụng một cách rộng ri chế định án treo
và chế định tha miễn trớc thời hạn có
điều kiện; không xử phạt tù ngắn hạn để
loại trừ ảnh hởng có hại của các nhà tù nghiên cứu - trao đổi
tạp chí luật học - 11

đối với những ngời bị kết án. Nói chung,
trờng phái x hội học đ có những thành
tựu quan trọng trong việc nghiên cứu lí
luận về căn cứ x hội của luật hình sự,
mục đích của hình phạt, nhân thân ngời
phạm tội cũng nh các nguyên nhân của
tình trạng phạm tội và soạn thảo các biện

yếu tố khác nhau của tình trạng phạm tội
(mặc dù sự nguy hiểm đối với x hội của
họ có thể không liên quan gì đến việc
thực hiện tội phạm cụ thể nào cả). Do đó,
để bảo vệ mình, x hội cần cố gắng phát
hiện ra họ trớc khi họ thực hiện sự xâm
hại đến các lợi ích của x hội và vô hiệu
hóa họ bằng cách áp dụng đối với họ các
biện pháp an ninh (điều trị và ngăn ngừa)
mà không nhất thiết là họ đ hoặc cha
phạm tội cụ thể nào cả. Vì thế, căn cứ và
giới hạn của trách nhiệm hình sự cần phải
đợc xác định bằng chính nhân thân của
ngời đ hoặc sẽ phạm tội chứ không
phải bằng tính chất hay sự nghiêm trọng
của hành vi phạm tội
Nh vậy, sự thật khách quan không
thể phủ nhận là việc thay thế hình phạt
bằng các biện pháp an ninh đ cự tuyệt
nguyên tắc trách nhiệm do lỗi cũng nh
một loạt các nguyên tắc và chế định
truyền thống của luật hình sự và do đó
thuyết về tình trạng nguy hiểm của nhân
thân đ không nhận đợc sự ủng hộ của
đa số nhà khoa học và thực tiễn vì tính
phản động và phi khoa học của nó.
+ Thuyết về tự vệ x hội mới (do nhà
luật học ngời Pháp Mark Ansel
(10)
đề

5. Trờng phái nhân chủng học
trong khoa học luật hình sự
5.1. Việc nghiên cứu những luận điểm
luật hình sự của trờng phái nhân chủng
học cho phép nên lên những đặc điểm cơ
bản sau:
+ Xuất hiện ở Italia vào những năm
70 - 80 của thế kỉ XIX, những đại diện
của trờng phái nhân chủng học bên cạnh
ngời sáng lập là bác sĩ, nhà tâm thần học
Treraze Lombrozo (1835 - 1909) có thẩm
phán tòa phúc thẩm R.Garofalô, giáo s
luật hình sự E.Ferri cũng nh Firetti và
Marro (Italia), Deberre và Labon (Pháp),
Bedenhikt và Kuren (Đức). Những t
tởng đầu tiên của trờng phái nhân
chủng học đ đợc trình bày trong các
công trình nghiên cứu nh Con ngời tội
phạm trong mối tơng quan với nhân
chủng học, luật học và nhà tù học (1876)
của Lomborzo, X hội học hình sự (1881)
của Ferri (đợc xuất bản dới tên gọi
Những triển vọng mới của luật hình sự và
tố tụng) và Tội phạm học (1885) của
Garofalô. Lombrozo và đồng nghiệp của
ông đ cho ra đời Tạp chí lu trữ tâm thần
học hình sự và nhân chủng học hình sự
(từ năm 1880) và họ đ tổ chức các hội
nghị quốc tế về nhân chủng học hình sự ở
châu Âu (trong thời kì từ năm 1885 -

tình dục - môi dày, tóc dài ).
- Từ thuyết trên đây về tình trạng
phạm tội và con ngời tội phạm, trờng
phái nhân chủng học đ đa ra những
luận điểm cơ bản nh: Cần cách li vĩnh
viễn khỏi x hội những ngời "ngay từ
lúc sinh ra đ là những kẻ phạm tội" bằng
cách đa đi biệt xứ đến nơi khổ sai hoặc
ra đảo xa xôi không có ngời ở. Để ngăn
ngừa tội phạm về tình dục, cần phải tiêm
thuốc hạn chế hoặc loại bỏ khả năng
phạm tội của những kẻ này cũng nh của
những ngời bị coi là tâm thần về tình
dục. Cần thay thế tòa án với thành phần là
các luật gia bằng ủy ban các giám định
viên với thành phần là các bác sĩ, nhà tâm
thần học và các nhà tâm thần học xác
định xem ở chủ thể nào có đặc điểm nhân
chủng học của con ngời tội phạm thì
quyết định việc áp dụng các biện pháp an
ninh đối với họ. Việc thực hiện tội phạm
của chủ thể không phải là căn cứ duy nhất
để truy cứu trách nhiệm hình sự mà chỉ là
lí do để nghiên cứu kĩ về tình trạng nguy
hiểm nhân thân xem nguyên nhân có phải nghiên cứu - trao đổi
tạp chí luật học - 13


sự), nói chung, nội dung chủ yếu trong
những luận điểm cơ bản nêu trên của
trờng phái nhân chủng học đ cho chúng
ta thấy rõ bản chất phản động của nó mà
cùng với các thuyết phân biệt chủng tộc
khác đ đợc các tập đoàn phản động của
Mútxôlini và Hítle sử dụng rộng ri ở
Itali và Đức để ngụy biện cho các cuộc
tàn sát và đàn áp hàng loạt những ngời
vô tội chỉ vì các lí do sắc tộc hoặc trái
quan điểm về chính trị trong thời kì cầm
quyền của bọn phát xít những năm 30 -
40 của thế kỉ XX.
5.2. Hiện nay, trên nền tảng của
trờng phái nhân chủng học, trong khoa
học luật hình sự của một số nớc đ xuất
hiện một số luận thuyết sinh học - tâm lí
về các nguyên nhân của tình trạng phạm
tội mà ngời ta thờng gọi là các thuyết
"lombrozo mới". Nội dung chủ yếu của
các thuyết này thể hiện rõ bản chất phi
khoa học (ví dụ: Các gen của tính chất tội
phạm có ở một số loại ngời nhất định
trong x hội, chúng mang đặc tính di
truyền và có thể ảnh hởng đến nhiều thế
hệ kế tiếp nhau)./.

(1).Xem: F.M. Resetnhikôp, Hệ thống pháp luật của
các nhà nớc trên thế giới. Sách tra cứu. Nxb. Sách
pháp lí, M.1993, tr.105 (tiếng Nga).

học tổng hợp hữu nghị giữa các dân tộc, M.1966
(tiếng Nga).


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status