Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty Dụng cụ cắt và đo lường cơ khí - Pdf 10

LỜI NÓI ĐẦU
Kinh tế thị trường là việc tổ chức nền kinh tế xã hội dựa trên cơ sở một
nền sản xuất hàng hóa. Thị trường luôn mở ra các cơ hội kinh doanh mới
những đồng thời cũng chứa đựng những nguy cơ đe dọa các doanh nghiệp. Để
có thể đứng vững trước quy luật cạnh tranh khắc nghiệt của cơ chế thị trường
đòi hỏi các doanh nghiệp luôn vận động, tìm tòi một hướng đi mới cho phù
hợp. Vì vậy các doanh nghiệp phải quan tâm, tìm mọi biện pháp để nâng cao
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn là mối quan tâm hàng đầu
của các doanh nghiệp. Có nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh thì doanh
nghiệp mới tồn tại và phát triển, qua đó mở rộng sản xuất, nâng cao đời sống
cán bộ công nhân viên và tạo sự phát triển vững chắc của doanh nghiệp.
Vấn đề nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh vẫn là bài toán khó đối
với nhiều doanh nghiệp. Ở nước ta hiện nay số doanh nghiệp đạt được hiệu
quả trong quá trình sản xuất kinh doanh vẫn chưa nhiều. Điều này có nhiều
nguyên nhân như: Hạn chế trong công tác quản lý, hạn chế về năng lực sản
xuất hay kém thích ứng với nhu cầu của thị trường. Do đó nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh càng ngày càng phải được chú trọng đặc biệt là đối với
các doanh nghiệp Nhà nước.
Qua quá trình thực tập ở Công ty Dụng cụ cắt và đo lường cơ khí, với
những kiến thức đã tích luỹ được cùng với sự nhận thức về tầm quan trọng
của vấn đề này em đã chọn đề tài: "Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh ở Công ty Dụng cụ cắt và đo lường cơ khí" làm đề
tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần như sau:
Phần I: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh - Điều kiện tiên quyết
để doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Phần II: Thực trạng và công tác đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh ở Công ty Dụng cụ cắt và đo lường cơ khí.
Phần III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh của Công ty Dụng cụ cắt và đo lường cơ khí.

quá trình sản xuất kinh doanh.
1.1.2. Hiệu quả chính trị, xã hội.
Nếu đứng trên phạm vi toàn xã hội và nền kinh tế quốc dân thì ta có hai
phạm trù hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội. Hai phạm trù này phản ánh
ảnh hưởng của hoạt động sản xuất kinh doanh đối với việc giải quyết những
yêu cầu và mục tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Và hai loại hiệu
quả này có vị trí quan trọng trong việc phát triển đất nước một cách toàn diện
và bền vững. Hiệu quả chính trị, xã hội phản ánh trình độ phát triển nền kinh
3
tế xã hội ở các mặt: trình độ tổ chức sản xuất, trình độ quản lý, mức sống bình
quân.
Phải luôn có sự cân đối giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả chính trị, xã
hội. Đây là một nguyên tắc để phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia một
cách liên tục và lâu dài. Bất kỳ một sự mất cân đối nào sẽ dẫn đến những hậu
quả nghiêm trọng.
Dưới góc độ của doanh nghiệp thì ta có khái niệm hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh có bản chất của hiệu quả kinh tế và
cũng có bản chất của hiệu quả chính trị, xã hội (đời sống người lao động…).
Dưới đây là một số quan điểm về hiệu quả kinh tế và hiệu quả chính trị, xã
hội. Nếu áp dụng những quan điểm đó vào phạm vi của doanh nghiệp thì ta có
thể coi đó là các quan điêmr về hiệu quả sản xuất kinh doanh. Qua một số
quan điểm này chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về khái niệm hiệu quả sản xuất kinh
doanh.
1.1.3. Một số quan điểm về hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Mặc dù đã có sự thống nhất rằng phạm trù hiệu quả sản xuất kinh
doanh phản ánh mặt chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng vẫn
chưa có sự thống nhất trong quan niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Các nhà kinh tế và thống kê có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả
sản xuất kinh doanh do điều kiện lịch sử và giác độ nghiên cứu là không
giống nhau.

kinh tế có hiệu quả nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nó"
3
[Xem
trang 275]. Nhìn nhận quan điểm này dưới giác độ doanh nghiệp thì tình hình
sản xuất kinh doanh có hiệu quả khi nằm trên đường giới hạn khả năng sản
xuất của nó. Giới hạn khả năng sản xuất của doanh nghiệp được xác định
bằng giá trị tổng sản lượng tiềm năng, là giá trị tổng sản lượng cao nhất có thể
đạt được ứng với tình hình công nghệ và nhân công nhất định. Theo quan
điểm này thì hiệu quả thể hiện ở sự so sánh mức thực tế và mức "tối đa" về
sản lượng. Tỷ lệ so sánh càng gần 1 càng có hiệu quả. Mặt khác ta thấy quan
điểm này tuy đã đề cập đến các yếu tố đầu vào nhưng lại đề cập không đầy
đủ.
Tóm lại quan điểm này là chính xác, độc đáo nhưng nó mang tính chất
lý thuyết thuần tuý, lý tưởng, thực tế rất khó đạt được.
Quan điểm 4: Quan điểm này cho rằng "Hiệu quả kinh tế nền sản xuất
xã hội là mức độ hữu ích của sản phẩm được sản xuất ra, tức là giá trị sử dụng
của nó chứ không phải là giá trị"
4
[Xem trang 9]. Theo tác giả của quan điểm
này, mức độ thỏa mãn nhu cầu phụ thuộc vào các tác dụng vật chất cụ thể chứ
không phải giá trị trừu tưoựng nào đó. Tuy nhiên quan điểm này gặp phải trở
ngại là khó (nếu không muốn nói là không thể) tính được tính hữu ích của sản
phẩm được sản xuất ra. Và nếu vậy thì chúng ta không thể so sánh được tính
hữu ích giữa các sản phẩm, do đó cũng không đánh giá được tính hiệu quả
của hoạt động sản xuất kinh doanh,.
5
Quan điểm 5: Quan điểm này cho rằng "Hiệu quả kinh tế được xác
định bởi quan hệ tỷ lệ giữa sự tăng lên của đại lượng kết quả và chi phí"
5
[Xem trang 253].

7
[Xem trang 9].
Từ khái niệm trên ta có công thức để biểu diễn khái quát phạm trù hiệu
quả sản xuất kinh doanh.
H =
C
K
(2)
H: Hiệu quả sản xuất kinh doanh.
6
K: Kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh.
C: Chi phí của quá trình sản xuất kinh doanh (chi phí bỏ ra để đạt được
kết quả K).
Như vậy ta nhận thấy rằng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Còn kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh (doanh thu, lợi nhuận) thì phản
ánh số lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Vậy khi xem xét, đánh giá
hoạt động của một doanh nghiệp thì phải quan tâm cả kết quả cũng như hiệu
quả của doanh nghiệp đó.
Quan điểm này đã đánh giá được tốt nhất trình độ lợi dụng các nguồn
lực ở mọi điều kiện "động" của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Việc tính toán hiệu quả hoàn toàn có thể thực hiện được trong sự vận
động và biến đổi không ngừng của hoạt động sản xuất kinh doanh, không phụ
thuộc vào quy mô và tốc độ biến động khác nhau của chúng.
1.2. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh:
Hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh mặt chất lượng của các hoạt
động kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động, thiết bị,
máy móc, tiền, nguyên vật liệu) để đạt được mục tiêu cuối cùng của doanh
nghiệp. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là sự
thực hiện yêu cầu của quy luật tiết kiệm thời gian.

chi phí (các nguồn lực đầu vào) để đánh giá hiệu quả sản kinh doanh. Trong
lý thuyết và thực tế quản trị kinh doanh cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí đều
có thể được xác định bằng đơn vị hiện vật và đơn vị giá trị. Tuy nhiên, sử
dụng đơn vị hiện vật để xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ vấp phải
khó khăn là giữa "đầu vào" và "đầu ra" không có cùng một đơn vị đo lường,
còn việc sử dụng đơn vị giá trị luôn luôn đưa các đại lượng khác nhau về cùng
một đơn vị đo lường tiền tệ. Vấn đề được đặt ra là hiệu quả sản xuất kinh
doanh là mục tiêu hay phương tiện của kinh doanh? Trước tiên, hiệu quả sản
xuất kinh doanh phản ánh việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp đạt được
ở trình độ nào. Nhưng xem xét hiệu quả kinh tế không chỉ dừng ở đó mà
thông qua đó có thể phân tích, tìm ra các nhân tố cho phép nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh. Từ đó có thể có các giải pháp nhằm đạt mục tiêu của
doanh nghiệp ở mức độ cao hơn với chi phí về nhân tài, vật lực và tiền vốn ít
hơn. Như vậy, nhiều lúc người ta sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả như mục tiêu
cần đạt và trong nhiều trường hợp khác người ta lại sử dụng chúng như công
cụ để nhận biết khả năng tiến tới mục tiêu cần đạt là kết quả.
2. Đặc điểm của hiệu quả sản xuất kinh doanh.
8
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một khái niệm phức tạp và khó đánh
giá chính xác. Sở dĩ phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù phức
tạp và khó đánh giá chính xác là vì ngay ở khái niệm về hiệu quả sản xuất
kinh doanh đã cho thấy hiệu quả sản xuất kinh doanh được xacs định bởi mối
tương quan giữa hai đại lượng là kết quả đạt được từ hoạt động sản xuất
(doanh nghiệp sản xuất) hoặc kinh doanh (doanh nghiệp thương mại, dịch
vụ…) và chi phí bỏ ra để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh đó.
Trong khi cả hai đại lượng kết quả và chi phí đều khó xác định chính xác.
Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chúng ta thấy hầu như rất ít
khi các doanh nghiệp xác định được chính xác các kết quả mà doanh nghiệp
thu được ở một thời điểm nào đó do các quá trình tạo ra kết quả diễn ra trong
các doanh nghiệp thường có sản phẩm dở dang, bán thành phẩm,… Trong nền

ngày càng đưa chi phí tính toán tiếp cận đến gần chi phí kinh tế hơn. Hơn
nữa, không chỉ những chi phí trực tiếp trong sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp mới đem lại kết quả cho doanh nghiệp, mà còn rất nhiều chi phí cho
hoạt động xã hội như: Giáo dục, cải tạo môi trường, sức khoẻ… có tác động
không nhỏ tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các chi phí này rất khó
tính toán được trong quá trình xem xét hiệu quả kinh tế. Mặt khác, trong thực
tế khi ra các quyết định sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp
thường hướng vào mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận nên dẫn đến xu hướng chi
phí biên cá nhân (MPC) thấp hơn chi phí biên xã hội (MSC). Điều này dẫn
đến sự tách biệt giữa kết quả và hiệu quả cá biệt xã hội. Để rút ngắn sự tách
biệt này, các biện pháp can thiệp vĩ mô của Nhà nước là hoàn toàn cần thiết.
Cũng cần thấy rằng khi doanh nghiệp ra quyết định sản xuất kinh doanh theo
hướng giảm chi phí biên cá nhân so với chi phí biên xã hội sẽ tạo ra ảnh
hưởng ngoại ứng đối với các doanh nghiệp sản xuất khác cũng như đối với
người tiêu dùng và trong nhiều trường hợp cũng ảnh hưởng trực tiếp đến bản
thân doanh nghiệp với tư cách là một thành viên trong đó. Nhiều doanh
nghiệp cố tình giảm thiểu chi phí cho việc xử lý chất thải, gây ô nhiễm môi
trường và sự ô nhiễm ngày một tăng ảnh hưởng đến cả khu vực rộng lớn và
cuối cùng dẫn đến việc đóng cửa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
bằng các biện pháp pháp luật. Như thế kết quả và hiệu quả đạt được trước mắt
của doanh nghiệp đã dẫn đến không có hiệu quả và thậm chí phi hiệu quả
kinh tế nếu xét trong thời gian dài.
3. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp phải luôn gắn mình với
thị trường nhất là trong một nền kinh tế mở. Do vậy mà để thấy được vai trò
của nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp trong
10
nền kinh tế trước hết chúng ta nghiên cứu cơ chế thị trường và hoạt động của
doanh nghiệp trong thị trường.

11
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần VII nếu rõ: "Một thành tựu khác
về đổi mới kinh tế là bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước".
Phát triển kinh tế nhiều thành phần phải đảm bảo cho tổng sản phẩm xã
hội c+v+m và thu nhập quốc dân m+v đủ để thỏa mãn 2 yêu cầu sau:
Một là: Bù đắp đầy đủ, kịp thời chi phí về tư liệu sản xuất và chi phí
lao động đã hao phí (c+v) trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần.
Hai là: Bảo đảm cho nền kinh tế quốc dân có được một bộ tích lũy quan
trọng để tái sản xuất mở rộng và đáp ứng những nhu cầu của xã hội.
- Thứ hai: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là cơ sở cơ bản để
đảm bảo tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự có mặt của doanh
nghiệp trên thị trường trong khi đó lại là nhân tố trực tiếp đảm bảo sự có mặt
này, đồng thời là mục tiêu của tất cả các doanh nghiệp là: Luôn tồn tại, phát
triển một cách vững chắc. Do vậy thu nhập của doanh nghiệp phải không
ngừng nâng lên. Nhưng trong điều kiện vốn và các kỹ thuật chỉ thay đổi trong
khuôn khổ nhất định thì để tăng lợi nhuận bắt buộc các doanh nghiệp phải
tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Như vậy, hiệu quả sản xuất kinh doanh là
điều kiện hết sức quan trọng trong công việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp.
Một cách nhìn khác sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự
tạo ra hàng hóa, của cải vật chất và các dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của xã
hội đồng thời tạo ra tích lũy cho xã hội. Để thực hiện được như vậy thì mỗi
doanh nghiệp đều phải vươn lên đảm bảo thu nhập, bù đắp chi phí bỏ ra và có
lãi trong quá trình hoạt động kinh doanh. Có như vậy mới đáp ứng được nhu
cầu tái sản xuất trong nền kinh tế. Và như vậy chúng ta buộc phải nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh như là một tất yếu.
Tuy nhiên, sự tồn tại mới chỉ là một yêu cầu mang tính chất giản đơn

1. Tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Từ công thức định nghĩa về hiệu quả kinh tế, chúng ta thấy khi thiết lập
mối quan hệ tỷ lệ giữa đầu ra và đầu vào có thể cho một dãy giá trị khác nhau.
Vấn đề được đặt ra là trong một dãy các giá trị có thể đạt được thì giá trị nào
phản ánh tính có hiệu quả (nằm trong miền có hiệu quả), các giá trị nào sẽ
phản ánh tính hiệu quả cao cũng như những giá trị nào nằm trong miền không
đạt hiệu quả (phi hiệu quả). Chúng ta có thể hiểu tiêu chuẩn hiệu quả sản xuất
kinh doanh là thước đo, là giới hạn, là căn cứ, là một cái mốc xác định ranh
13
giới có hiệu quả hay không có hiệu quả về một chỉ tiêu hiệu quả đang xem
xét.
Xét trên phương diện lý thuyết, mặc dù các tác giả đều thừa nhận về
bản chất khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh trình độ lợi dụng
các yếu tố sản xuất, song công thức khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh
cũng chưa phải là công thức mà các nhà kinh tế thống nhất thừa nhận. Vì vậy,
cũng không có tiêu chuẩn chung cho mọi công thức hiệu quả sản xuất kinh
doanh, mà tiêu chuẩn hiệu quả sản xuất kinh doanh còn phụ thuộc vào mỗi
công thức xác định hiệu quả cụ thể. Ở các doanh nghiệp tiêu chuẩn hiệu quả
phụ thuộc vào từng chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh cụ thể. Chẳng hạn,
với những chỉ tiêu hiệu quả liên quan đến các quyết định lựa chọn kinh tế sử
dụng phương pháp cận biên người ta hay so sánh các chỉ tiêu như doanh thu
biên và chi phí biên với nhau và tiêu chuẩn hiệu quả là doanh thu biên bằng
với chi phí biên (tổng hợp cũng như cho từng yếu tố sản xuất). Trong phân
tích kinh tế với việc sử dụng các chỉ tiêu tính toán trung bình có khi lấy mức
trung bình của ngành hoặc của kỳ trước làm mức hiệu quả so sánh và kết luận
tính hiệu quả của doanh nghiệp.
Như vậy, việc nghiên cứu để đưa ra được tiêu chuẩn cho mỗi chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh và việc phấn đấu
để đạt được tiêu chuẩn đó là công việc hết sức quan trọng để thúc đẩy sự phát
triển của doanh nghiệp.

- Thứ tư: Hệ thống các chỉ tiêu phải đảm bảo phản ánh được tính đặc
thù của từng ngành kinh doanh khác nhau.
2.1. Chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp.
Chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp phản ánh khái quát và
cho phép kết luận về hiệu quả kinh tế của toàn bộ quá trình sản xuất kinh
doanh, phản ánh trình độ lợi dụng tất cả các yếu tố tham gia vào quá trình sản
xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (tư liệu sản xuất, nguyên nhiên
vật liệu, lao động… và bao hàm cả tác dụng của yếu tố quản trị đến sử dụng
có hiệu quả các yếu tố trên).
2.1.1. Các chỉ tiêu doanh lợi.
Xét trên cả phương diện lý thuyết và thực tiễn quản trị kinh doanh các
nhà kinh tế cũng như các nhà quản trị hoạt động kinh doanh ở các doanh
nghiệp đều quan tâm trước hết đến việc tính toán, đánh giá chỉ tiêu chung
phản ánh doanh lợi của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu doanh lợi được tính cho
15
toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp và tính riêng cho vốn tự có của
doanh nghiệp. Những chỉ tiêu này phản ánh mức sinh lời của vốn kinh doanh,
vốn tự có, khẳng định mức độ đạt hiệu quả kinh doanh của toàn bộ số vốn
doanh nghiệp sử dụng nói chung cũng như hiệu quả sử dụng số vốn tự có của
doanh nghiệp nói riêng. Nhiều tác giả coi các chỉ tiêu này là thước đo mang
tính quyết định đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
t Doanh lợi vốn kinh doanh
D
VKD
(%) =
KINHDOANH
WR
V
)( Π+Π
(3)

nhuận.
Ngoài ra, cũng thuộc chỉ tiêu doanh lợi còn có thể sử dụng chỉ tiêu
doanh lợi của doanh thu bán hàng, chỉ tiêu được xác định.
D
TR
(%) =
TR
x
R
100Π
(5)
D
TR
: Doanh lợi của doanh thu trong một thời kỳ nhất định
TR: Doanh thu trong thời kỳ đó
Chỉ tiêu này cho biết số lợi nhuận đạt được từ một đồng doanh thu.
2.1.2. Các chỉ tiêu tính hiệu quả kính tế.
16
Do có nhiều quan điểm khác nhau về công thức định nghĩa hiệu quả
kinh tế nên ở phương diện lý thuyết cũng như thực tế có nhiều cách biểu hiện
cụ thể khác nhau. Có thể sử dụng hai công thức sau để đánh giá hiệu quả kinh
tế.
t Tính hiệu quả kinh tế (H0
H
1
(%) =
TC
G
C
xQ 100

nhằm tìm biện pháp tối đa chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp.
Đây là chức năng chủ yếu của hệ thống chỉ tiêu này.
Ngoài ra chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh bộ phận còn dùng để
phân tích bổ sung cho chỉ tiêu tổng hợp để kiểm tra và khẳng định rõ hơn kết
luận được rút ra từ các chỉ tiêu tổng hợp.
Do các chỉ tiêu bộ phận phán ảnh hiệu quả kinh tế của từng mặt hoạt
động (bộ phận) nên thường được xây dựng trong thống kê, phân tích cụ thể,
chính xác mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, từng mặt hoạt động, từng bộ
phận công tác đến hiệu quả kinh tế tổng hợp.
17
2.2.1. Hiệu quả sử dụng vốn.
Thực ra muốn có các yếu tố đầu vào doanh nghiệp cần có vốn kinh
doanh, nếu thiếu vốn mọi hoạt động của doanh nghiệp hoặc đình trệ hoặc kém
hiệu quả. Do đó các nhà kinh tế cho rằng chỉ tiêu sử dụng vốn là một chỉ tiêu
hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp. Chỉ tiêu này được xác định thông qua
công thức (2) và (3). Ở đây có thể đưa ra một số công thức được coi là đánh
giá hiệu quả sử dụng tổng vốn và từng bộ phận vốn của doanh nghiệp.
g Số vòng quay toàn bộ vốn (SV
v
)
SV
v
=
KINHDOANH
V
TR
(8)
Chỉ tiêu này cho biết toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp quay
được mấy vòng trong kỳ. Số vòng quay càng lớn hiệu quả sử dụng vốn càng
lớn.

(10)
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đồng lợi nhuận, doanh nghiệp cần
phải sử dụng bao nhiêu đồng vốn cố định.
Nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn cố định có thể thấy các nguyên nhân
của việc sử dụng vốn cố định không có hiệu quả thường là đầu tư tài sản cố
18
định quá mức cần thiết, tài sản cố định không sử dụng chiếm tỷ trọng lớn, sử
dụng tài sản cố định với công suất thấp hơn mức cho phép.
d Hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
H
VLĐ
=
LD
R
V
Π
(11)
H
VLĐ
: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
V

: Vốn lưu động bình quân trong năm
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn được phản ánh gián tiếp qua số
vòng luân chuyển vốn lưu động trong năm (SV
VLĐ
).
SV
VLĐ
=

V
TR
x
TR
R
Ld
R
Π
=
Π
x SV
VLĐ
(14)
Như vậy, nếu cố định chỉ tiêu doanh lợi doanh thu bán hàng thì hiệu
quả sử dụng vốn lưu động tỷ lệ thuận với số vòng quay vốn lưu động. Số
vòng quay vốn lưu động cao sẽ có thể đưa đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động
cao.
Trong các công thức trên vốn lưu động bình quân là số trung bình của
giá vốn lưu động ở thời điểm đầu kỳ và thời điểm cuối kỳ.
19
Các chỉ tiêu phán ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động được đặc biệt chú
trọng trong các doanh nghiệp thương mại. Vì ở các doanh nghiệp này vốn lưu
động chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ vốn của doanh nghiệp.
đ Hiệu quả vốn góp trong Công ty cổ phần được xác định bởi tỷ suất lợi
nhuận của vốn cổ phần (D
VCT
).
D
VCP
: Tỷ suất lợi nhuận vốn cổ phần

dụng thời gian lao động trong năm (Số ngày bình quân làm việc trong năm, số
giờ bình quân làm việc mỗi ngày của lao động trong doanh nghiệp) và năng
suất lao động bình quân mỗi giờ.
Năng suất lao động theo giờ (AP
G
được xác định từ chỉ tiêu năng suất
lao động năm).
AP
G
=
GCN
AP
N
**
(16)
20
N: Số ngày làm việc bình quân trong năm
C: Số ca làm việc trong ngày
G: Số giờ làm việc bình quân mỗi ca lao động
AP
G
: Năng suất lao động bình quân mỗi giờ làm việc của một lao động.
Chỉ tiêu này còn có thể được xác định bằng nhiều cách khác nhau,
chẳng hạn xác định trực tiếp từ sản lượng tạo ra trong một ca lao động hoặc
một ngày làm việc.
Về bản chất chỉ tiêu năng suất lao động được xác định phù hợp với
công thức khái niệm sản xuất kinh doanh và do đó biểu hiện tính hiệu quả
trong việc sử dụng lực lượng lao động trong doanh nghiệp.
t Chỉ tiêu mức sinh lời bình quân của lao động.
Bên cạnh chỉ tiêu năng suất lao động, chỉ tiêu mức sinh lời bình quân

nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hiệu suất tiền lương tăng lên khi
năng suất lao động tăng với nhịp độ cao hơn nhịp độ tăng tiền lương.
21
TR
BQ
=
L
TR
(19)
Chỉ tiêu này phản ánh một lao động có thể tạo ra được bao nhiêu đồng
doanh thu trong kỳ.
+ Chỉ tiêu tỷ lệ lao động gián tiếp L
GT
L
GT
=
AL
AL
GT
(20)
Chỉ tiêu này cho biết mức doanh thu của một lao động
AL
GT
: Số lao động gián tiếp bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu tỷ lệ lao động gián tiếp thể hiện trình độ quản lý của doanh
nghiệp. Một doanh nghiệp có trình độ quản lý tiên tiến thì tỷ lệ lao động gián
tiếp < 10%.
2.2.3. Hiệu suất sử dụng nguyên vật liệu.
Vòng luân chuyển
nguyên vật liệu

Z
HHCB
: Tổng giá thành hàng hóa đã chế biến
VT
ĐT
: Giá trị vật tư dự trữ đưa vào chế biến
Hai chỉ tiêu trên cho biết khả năng khai thác các nguồn nguyên liệu, vật
tư của doanh nghiệp đánh giá chu kỳ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai chỉ tiêu trên mà cao thì cho biết doanh nghiệp giảm được chi phí nguyên
vật liệu dự trữ, rút ngắn chu kỳ về chuyển đổi nguyên vật liệu thành thành
phẩm, giảm bở ứ đọng của nguyên vật liệu tồn kho và tăng vòng quay vốn lưu
22
động. Tuy nhiên nếu quá thấp là doanh nghiệp có thể thiếu nguyên vật liệu dự
trữ, cạn kho, không đáp ứng đầy đủ nhu cầu sản xuất.
Ngoài ra, người ta còn đánh giá mức thiệt hại, mất mát nguyên vật liệu
trong quá trình dự trữ, sử dụng chúng. Chỉ tiêu này được tính như sau:
Tỷ lệ hao hụt
nguyên vật
liệu
=
Giá trị nguyên vật liệu hao hụt,
mất mát
Tổng giá trị nguyên vật liệu sử
dụng trong kỳ
(22)
Chỉ tiêu này được so sánh với các định mức kinh tế, kỹ thuật hiện hành
hoặc đối chiếu với mức hao hụt kỳ trước để đưa ra quyết định thích hợp nhằm
sử dụng vật tư tiết kiệm, đúng định mức, phù hợp với thực tế sản xuất và có
hiệu quả.
Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu thường được sử dụng

Công ty Dụng cụ cắt và đo lường cơ khí là doanh nghiệp Nhà nước
thuộc Tổng Công ty máy và thiết bị Công nghiệp. Hoạt động chủ yếu của
Công ty là sản xuất kinh doanh nhằm sử dụng hiệu quả các tiềm năng sẵn có
Công ty, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu, thu hút thêm
lao động xã hội thực hiện tốt nhiệm vụ Tổng Công ty giao và đạt lợi nhuận.
Công ty do Bộ trưởng Bộ công nghiệp quyết định thành lập theo đề nghị của
Hội đồng quản trị Tổng Công ty máy và thiết bị Công nghiệp.
Công ty có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh bao gồm từ khâu nghiên cứu
thiết kế, chế tạo, gia công, sửa chữa, dịch vụ, xuất nhập khẩu, cung ứng dụng
cụ cắt gọt kim loại, dụng cụ phụ tùng cơ khí, dụng cụ đo lường, dụng cụ cầm
tay, thiết bị công nghiệp, tiến hành các hoạt động kinh doanh dịch vụ khác
theo pháp luật.
Tiền thân của Công ty là một phân xưởng dụng cụ của Công ty cơ khí
Hà Nội. Công ty được thành lập ngày 25 tháng 3 năm 1968 theo quyết định số
74/QĐ/KB2 do Bộ trưởng Bộ công nghiệp nặng (nay là Bộ công nghiệp) ký.
Lúc này, Công ty mang tên Nhà máy dụng cụ cắt gọt, có trụ sở chính tại 108
Đường Nguyễn Trãi, Đống Đa, Hà Nội (nay là quận Thanh Xuân).
Cho đến nay, trải qua hơn 30 năm phát triển để phù hợp với điều kiện,
tình hình sản xuất kinh doanh của từng thời kỳ Công ty đã có 3 lần đổi tên.
Nhà máy dụng cụ cắt gọt: 1968 - 1970
Nhà máy dụng cụ số 1: 1970 - 1995
Công ty Dụng cụ cắt và đo lường cơ khí: 1995 đến nay
Theo quyết định số 702QĐ/BCN ngày 12/07/1995, Nhà máy dụng cụ
số 1 được đổi tên thành Công ty Dụng cụ Cắt và Đo lường Cơ khí thuộc Tổng
25

Trích đoạn MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ KỸ THUẬT CHỦ YẾU ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC BẢO ĐẢM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty trong thời gian qua. 57,873 6,758 289,138 63,476 11 Tổng lợi nhuận trước Nguồn vốn kinh doanh. Chỉ tiêu chi phí.
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status