Hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán - Pdf 10

Luận văn tốt nghiệp - 1 -
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, chúng ta đang sống trong thể kỷ 21, thế kỷ của hội nhập kinh
tế trong khu vực và trên toàn thế giới. Hội nhập kinh tế vừa là cơ hội để phát
triển đất nước vừa là thách thức lớn đối với nhiều lĩnh vực sản xuất và dịch vụ
của Việt nam để có thể cạnh tranh với các hàng hoá trên thị trường trong và
ngoài nước.
Trong xu thế chung đó, lĩnh vực kiểm toán Việt Nam vẫn còn khá non
trẻ và đang đứng trước nhiều khó khăn. Các công ty kiểm toán độc lập ở Việt
Nam cũng đang nâng cao chất lượng và số lượng dịch vụ để từng bước chuẩn
bị hội nhập hoàn toàn với quốc tế và cạnh tranh với các công ty kiểm toán
nước ngoài.
Trong kiểm toán, kiểm toán tài chính là hoạt động đặc trưng nhất và
được thực hiện nhiều nhất trong các cuộc kiểm toán. Để nâng cao chất lượng
của các cuộc kiểm toán báo cáo tài chính, các công ty kiểm toán hiện nay
đang rất chú trọng đến các công việc được tiến hành trong một cuộc kiểm
toán. Công tác đánh giá rủi ro kiểm toán là một công việc hết sức phức tạp và
quan trọng vì nó sẽ giúp kiểm toán viên có kế hoạch kiểm toán hiệu quả, từ
đó xác định nội dung, lịch trình, phạm vi và các thủ tục kiểm toán để có thể
phát hiện ra các sai phạm trọng yếu trên báo cáo tài chính.
Thấy được tầm quan trọng của công tác đánh giá rủi ro kiểm toán trong
kiểm toán báo cáo tài chính và qua thời gian thực tập tại công ty TNHH Kiểm
toán và Định giá Việt Nam, em đã chọn đề tài: “ Hoàn thiện quy trình đánh
giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công
ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam” với mong muốn tìm hiểu và góp
phần hoàn thiện công tác đánh giá rủi ro kiểm toán.
Luận văn tốt nghiệp - 2 -
Luận văn tốt nghiệp gồm có 3 phần:
Phần 1: Lý luận chung về trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo
cáo tài chính
Phần 2 : Thực trạng đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán

tính cơ bản mà một thông tin hữu ích cần phải có”
Theo Văn bản chỉ đạo Kiểm toán quốc tế số 25 (IAG 25) do Liên đoàn kế
toán quốc tế (IFAC) soạn thảo và công bố thì: “Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ,
bản chất của sai phạm (kể cả bỏ sót) thông tin tài chính hoặc đơn lẻ, hoặc từng
Luận văn tốt nghiệp - 4 -
nhóm, mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì sẽ
không chính xác hoặc là sẽ rút ra kết luận sai lầm.”
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 về “Tính trọng yếu trong kiểm
toán” thì trọng yếu được định nghĩa như sau: “Thông tin được coi là trọng yếu
có nghĩa là nếu thiếu tính chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các
quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính. Mức trọng yếu tuỳ thuộc vào
tầm quan trọng và tính chất của thông tin hay của sai sót được đánh giá trong
hoàn cảnh cụ thể. Mức trọng yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không
phải là nội dung của thông tin cần phải có. Tính trọng yếu phải xét trên cả
phương diện định lượng và định tính”
Như vậy, trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ (hay độ lớn) và bản chất của
các sai phạm kể cả bỏ sót của các thông tin tài chính hoặc là đơn lẻ hoặc là
từng nhóm nếu xét trong một bối cảnh cụ thể, những sai phạm đó làm cho
người sử dụng BCTC đưa ra các quyết định sai lầm hoặc hiểu sai bản chất
vấn đề.
1.1.2 Vai trò của trọng yếu
Tính trọng yếu có vai trò rất quan trọng trong giai đoạn lập kế hoạch
kiểm toán, thực hiện kiểm toán (thiết kế phương pháp kiểm toán) và giai đoạn
kết thúc kiểm toán
 Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán:
Kiểm toán viên đánh giá mức độ trọng yếu để ước tính mức độ sai sót
có thể chấp nhận được, xác định phạm vi của cuộc kiểm toán và đánh giá ảnh
hưởng của các sai sót lên BCTC từ đó xác định bản chất, thời gian và phạm vi
các thử nghiệm kiểm toán.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt nam số 300 (VSA 300) quy định: trong giai

trọng yếu
Việc đánh giá trọng yếu là một công việc mang tính xét đoán nghề
nghiệp của kiểm toán viên. Hơn nữa, trọng yếu là một khái niệm tương đối và
gắn liền quy mô của khách hàng. Một sai phạm là trọng yếu với công ty này
nhưng có thể là không trọng yếu với công ty khác. Do đó, để đánh giá một
khoản mục, nghiệp vụ là trọng yếu hay không, kiểm toán viên cần xem xét
trên cả hai mặt định tính và định lượng của những sai phạm hay nói cách
khác, cần xem xét cả quy mô và bản chất nghiệp vụ trong quan hệ với tính
trọng yếu
1.1.3.1Quy mô trong mối quan hệ với trọng yếu
Quy mô của sai phạm đối với một khoản mục hay nghiệp vụ là một
nhân tố quan trọng để xem xét sai phạm đó có trọng yếu hay không. Các chỉ
tiêu thường được dùng làm cơ sở đánh giá tính trọng yếu như: thu nhập trước
thuế, tổng tài sản, doanh thu, tài sản lưu động, nợ ngắn hạn… Trong các chỉ
tiêu đó thì chỉ tiêu thu nhập trước thuế thường là quan trọng nhất vì nó được
xem như một khoản mục thông tin then chốt nhất đối với người sử dụng
BCTC.
Ta xem xét hai mức độ khác nhau về quy mô của khoản mục, nghiệp
vụ là quy mô nhỏ và quy mô lớn để thấy được mối quan hệ giữa quy mô và
tính trọng yếu.
a. Quy mô nhỏ
Một khoản mục, nghiệp vụ sai phạm với quy mô nhỏ trong báo cáo tài
chính thì thường được coi là không trọng yếu bởi vì việc phản ánh đúng hay
sai khoản mục, nghiệp vụ này cũng không ảnh hưởng đến quy mô chung trên
BCTC và không ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng.
Luận văn tốt nghiệp - 7 -
Tuy nhiên, khi xem xét các sai phạm không nên xem xét nó một cách
cô lập vì chúng không đủ trọng yếu do quy mô nhỏ nhưng nếu kiểm toán viên
cộng dồn các sai phạm thì sẽ phát hiện thấy sự liên quan và tính hệ thống của
các sai phạm từ đó phát hiện ra tính trọng yếu của chúng.

Các khoản mục, nghiệp vụ chứa gian lận hoặc chứa đựng khả năng
gian lận bao gồm:
 Các nghiệp vụ đấu thầu, giao thầu và giao dịch không hợp pháp. Các
nghiệp vụ này chứa đựng gian lận vì trong đấu thầu, việc lựa chọn chủ
thầu nhiều khi có sự móc nối, phối hợp giữa bên giao thầu và bên nhận
thầu để thu lợi cho một số cá nhân..
 Các nghiệp vụ thanh lý tài sản khi tài sản khấu hao hết hoặc chưa khấu hao
hết nhưng không còn sử dụng. Các nghiệp vụ này chứa đựng gian lận vì
trong nhiều trường hợp tài sản vẫn còn tốt và sử dụng được nhưng vẫn
đem đi thanh lý với giá rẻ do ban giám đốc không quản lý chặt chẽ và có
sự liên kết giữa người tiến hành thanh lý và người mua tài sản thanh lý.
 Các nghiệp vụ về tiền mặt: tiền mặt có đặc điểm gọn nhẹ, dễ di chuyển, cất
trữ và có biên độ dao động lớn do đó rất dễ có gian lận phát sinh
 Các nghiệp vụ về mua bán và thanh toán: dễ có sự liên kết giữa người mua
và người bán để kiếm lợi cho bản thân
 Các nghiệp vụ bất thường: Đây là các nghiệp vụ xảy ra không thường
xuyên, không có dự tính trước hoặc có dự tính nhưng ít khi xảy ra. Các
nghiệp vụ lại có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Do đó, kiểm toán viên cần xem xét mức độ nghiêm trọng của các
nghiệp vụ đó ảnh hưởng đến kết quả chung của doanh nghiệp
Luận văn tốt nghiệp - 9 -
 Các nghiệp vụ phân chia quyền lợi: chứa đựng khả năng gian lận cao vì
hầu như bất cứ ai cũng muốn thu lợi cho mình.
 Các nghiệp vụ cố ý bỏ ngoài sổ sách
 Các nghiệp vụ xảy ra vào cuối kỳ quyết toán hoặc thuộc loại nghiệp vụ
mới sinh. Các nghiệp vụ vào cuối kỳ kế toán thường để điều chỉnh một số
chênh lệch thừa thiếu để kết quả hoạt động kinh doanh được như kế hoạch
đã đề ra. Các nghiệp vụ mới phát sinh thì kiểm toán viên cần đặt câu hỏi
tại sao không phát sinh từ trước đến giờ và liệu kế toán có xử lý đúng chưa
và từ đó đi tìm bằng chứng chứng minh

yếu
Sơ đồ 1.1: Các bước xác định và vận dụng tính trọng yếu
Bước 1 Ước lượng ban đầu về trọng yếu
Bước 2 Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các
khoản mục
Bước 3 Ước lượng tổng số sai sót trong các khoản mục
Bước 4 Ước tính sai số kết hợp
Bước 5 So sánh sai số tổng hợp ước tính với ước lượng ban
đầu về trọng yếu
Luận văn tốt nghiệp - 11 -
Trong 5 bước trên, bước 1 và 2 được thực hiện trong giai đoạn lập kế
hoạch kiểm toán. Bước 3, 4, 5 được tiến hành trong giai đoạn thực hiện kiểm
toán
1.1.4.1Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu
Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là lượng tối đa mà kiểm toán
viên tin rằng ở mức đó các BCTC có thể bị sai lệch nhưng vẫn chưa ảnh
hưởng đến các quyết định kinh tế của người sử dụng thông tin tài chính. Hay
nói cách khác, đó chính là những sai sót có thể chấp nhận được đối với toàn
bộ báo cáo tài chính
Việc ước lượng ban đầu về trọng yếu giúp kiểm toán viên lập kế hoạch
để thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp. Nếu các kiểm toán viên
ước lượng mức trọng yếu càng thấp nghĩa là độ chính xác của các số liệu trên
BCTC càng cao thì số lượng bằng chứng cần thu thập càng nhiều và ngược lại
Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu mang tính chất xét đoán nghề
nghiệp của kiểm toán viên. Do đó, ước lượng ban đầu về trọng yếu không cố
định mà có thể thay đổi trong suốt cuộc kiểm toán nếu kiểm toán viên thấy
ước lượng ban đầu là không phù hợp vì một trong các nhân tố xác định mức
ước lượng này thay đổi.
Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế số 320 về “Tính trọng yếu trong kiểm
toán” đã quy định: “Việc đánh giá của chuyên gia kiểm toán về vấn đề trọng

hưởng tương tự như trên bảng cân đối kế toán do hệ thống bút toán ghi sổ kép.
Vì thế trong phần lớn các cuộc kiểm toán và hầu hết các thủ tục kiểm toán, việc
phân bổ này chủ yếu cho các khoản mục trên bảng cân đối kế toán.
Luận văn tốt nghiệp - 13 -
Việc phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục được
thực hiện theo cả hai hướng: khai khống (báo cáo thừa) và khai thiếu (báo
cáo thiếu)
Cơ sở để tiến hành phân bổ là bản chất của các khoản mục, rủi ro tiềm
tàng, rủi ro kiểm soát đối với từng khoản mục, chi phí kiểm toán. Tuy nhiên
trên thực tế rất khó biết trước được những tài khoản nào có khả năng sai số,
chi phí liên quan đến kiểm toán khó có thể xác định vì vậy công việc này
thường do các kiểm toán viên có trình độ chuyên môn cao, nhiều kinh nghiệm
thực hiện. Ví dụ như chi phí thu thập bằng chứng về hàng tồn kho cao hơn chi
phí thu thập về công nợ nên sai số có thể chấp nhận được của hàng tồn kho
cao hơn sai số có thể chấp nhận được đối với công nợ. Hoặc không có sai số
có thể chấp nhận được với lãi chưa phân phối vì chỉ tiêu này chỉ sinh ra từ sai
số các tài khoản khác.
1.1.4.3Ước tính tổng số sai sót cho từng khoản mục
Bằng các thủ tục kiểm toán được áp dụng, kiểm toán viên phát hiện ra
các sai sót đối với từng khoản mục. Dựa vào các sai sót này để ước tính tổng
số các sai sót đối với từng khoản mục. Đây là sai sót dự kiến, kiểm toán viên
sẽ so sánh nó với sai sót có thể chấp nhận được nhằm quyết định xem khoản
mục đó có thể chấp nhận hay không hay phải tiến hành thêm các thủ tục kiểm
toán thích hợp khác.
1.1.4.4 Ước tính tổng số sai sót có thể chấp nhận được
Sau khi ước tính sai sót cho từng khoản mục, kiểm toán viên tiến hành
ước tính tổng số sai sót có thể chấp nhận được. Tổng số sai sót có thể chấp
nhận được chính là tổng số sai sót dự kiến cho tất cả các khoản mục trên báo
cáo tài chính
1.1.4.5 So sánh ước tính sai số kết hợp với ước lượng ban đầu về trọng yếu

Để hiểu được rủi ro kiểm toán trước hết ta cần hiểu rủi ro là gì và phân
biệt một số loại rủi ro được đề cập trong lĩnh vực kiểm toán.
Theo từ điển Tiếng Việt, rủi ro là tính từ để chỉ việc không may xảy ra.
Trong lĩnh vực kiểm toán, ta cần phân biệt rủi ro kiểm toán và rủi ro kinh
doanh. Rủi ro kinh doanh là loại rủi ro mà công ty kiểm toán thường gặp phải
khi nhấp nhận kiểm toán. Đây là loại rủi ro công ty kiểm toán sẽ phải chịu
thiệt hại vì mối quan hệ với khách hàng. Rủi ro kinh doanh liên quan đến
trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài
chính cho khách hàng.
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 (IAG 25) “ Trọng yếu và
rủi ro kiểm toán” do Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) soạn thảo và công bố:
“Rủi ro kiểm toán là những rủi ro ma kiểm toán viên có thể mắc phải khi đưa
ra nhận xét không xác đáng về các thông tin tài chính và đó là sai sót nghiêm
trọng”.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát
nội bộ” (VSA 400) và Chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 400, khái niệm rủi ro
kiểm toán được định nghĩa như sau: “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do kiểm toán
viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi báo cáo
tài chính đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu”.
Rủi ro kiểm toán chủ yếu được kiểm toán viên xác định trong giai đoạn
lập kế hoạch kiểm toán. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 đã quy định:
“Rủi ro kiểm toán được xác định trước khi lập kế hoạch kiểm toán và trước khi
thực hiện kiểm toán”. Rủi ro kiểm toán được xác định sẽ giúp kiểm toán viên
có chiến lược chung với hợp đồng kiểm toán, bố trí nhân sự, thời gian cho
cuộc kiểm toán và thiết kế các thủ tục kiểm toán thích hợp cho các khoản mục
trên báo cáo tài chính.
Luận văn tốt nghiệp - 16 -
1.2.2 Các bộ phận cấu thành rủi ro kiểm toán
Rủi ro kiểm toán bao gồm ba bộ phận: Rủi ro tiềm tàng ( Inherrent Risk
– IR), rủi ro kiểm soát ( Control Risk - CR) và rủi ro phát hiện ( Detection

1.2.2.3Rủi ro phát hiện
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 “ Trọng yếu và rủi ro
kiểm toán”: “ Rủi ro phát hiện là những rủi ro mà kiểm toán viên không phát
hiện ra các sáíot hiện có trong các số dư tài khoản hoặc các loại nghiệp vụ.
Những sai sót này có thể là nghiêm trọng xảy ra đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với
các sai sót trong số dư, các loại nghiệp vụ khác. Mức độ rủi ro phát hiện có
quan hệ trực tiếp với phương pháp kiểm toán của kiểm toán viên”
Chuẩn mực kiểm toán Việt nam 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội
bộ”: “Rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ,
từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà
trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán không phát hiện
được”
1.2.3 Mối quan hệ giữa các loại rủi ro
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro dùng để đánh giá rủi ro trong giai đoạn
lập kế hoạch kiểm toán. Để tìm hiểu mối quan hệ giữa các loại rủi ro, trước
hết ta tìm hiểu về mô hình rủi ro kiểm toán.
1.2.3.1Mô hình rủi ro kiểm toán
Ta có:
Luận văn tốt nghiệp - 18 -
AR = IR x CR x DR
Trong đó: AR: Rủi ro kiểm toán IR: Rủi ro tiềm tàng
CR: Rủi ro kiểm soát DR: Rủi ro phát hiện
Mô hình rủi ro kiểm toán được sử dụng khi lập kế hoạch kiểm toán
theo một hoặc cả hai cách. Cách thứ nhất là mô hình được dùng để giúp kiểm
toán viên đánh giá liệu kế hoạch kiểm toán có hợp lý không. Ví dụ với một
cuộc kiểm toán nhất định, kiểm toán viên đánh giá Rủi ro tiềm tàng IR=0,5,
Rủi ro kiểm soat CR=0,25, Rủi ro phát hiện DR=0,1 thì AR=0,5 x 0,25 x
0,1=0,0125. Nếu kiểm toán viên kết luận là rủi ro kiểm toán thích hợp đối với
hợp đồng kiểm toán không thấp hơn 1,25% thì kế hoạch đó được chấp nhận.
Tuy nhiên để có được một kế hoạch hiệu quả hơn, kiểm toán viên

cuộc kiểm toán.
Mức độ rủi ro kiểm toán mong muốn được xác định dựa vào hai yếu tố
chủ yếu là: Mức độ mà theo đó những người sử dụng bên ngoài tin vào báo
cáo tài chính và khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn tài chính sau khi Báo
cáo kiểm toán được công bố.
 Mức độ mà theo đó những người sử dụng bên ngoài tin vào báo cáo tài
chính
Khi người sử dụng bên ngoài đặt nhiều niềm tin vào báo cáo tài chính
thì mức độ ảnh hưởng trên phạm vi toàn xã hội sẽ càng lớn nếu có một sai sót
không được phát hiện trên báo cáo tài chính. Do đó, kiểm toán viên cần xác
định một mức rủi ro kiểm toán thấp để tăng số lượng bằng chứng kiểm toán
cần thu thập và tăng độ chính xác trong các kết luận kiểm toán. Mức độ mà
Luận văn tốt nghiệp - 20 -
các báo cáo tài chính được người sử dụng bên ngoài tin tưởng phụ thuộc vào
một số yếu tố như:
 Quy mô của công ty khách hàng: Hoạt động của khách hàng càng lớn thì
báo cáo tài chính càng được sử dụng rộng rãi. Quy mô của công ty khách
hàng được đo lường bằng tổng tài sản, thu nhập và số lao động. Các chỉ
tiêu này càng lớn thì rủi ro kiểm toán mong muốn càng thấp.
 Sự phân phối quyền sở hữu: Các báo cáo của các công ty sở hữu công
cộng thường được người sử dụng tin tưởng hơn các báo cáo của các công
ty có quyền sử dụng hẹp hơn và khi đó, rủi ro kiểm toán mong muốn ở
mức thấp hơn. Ví dụ như công ty cổ phần niêm yết trên sàn có mức rủi ro
kiểm toán mong muốn thấp hơn so với công ty cổ phần nhưng chưa niêm
yết vì số lượng người quan tâm đến báo cáo tài chính nhiều hơn.
 Bản chất và quy mô công nợ: Khi các báo cáo tài chính bao gồm một số
lượng lớn công nợ, chúng có nhiều khả năng được sử dụng rộng rãi bởi
các chủ nợ thực tế và tiềm năng hơn là khi có ít công nợ. Lúc này rủi ro
kiểm toán mong muốn được đánh giá thấp hơn.
 Khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn tài chính sau khi Báo cáo kiểm

Căn cứ vào các yếu tố trên, kiểm toán viên sẽ xác định một mức rủi ro
kiểm toán mong muốn cho toàn bộ báo cáo tài chính. Kiểm toán viên có thể
dựa vào rủi ro kiểm toán mong muốn của toàn bộ báo cáo tài chính để đưa ra
rủi ro kiểm toán mong muốn cho từng khoản mục. Ví dụ: Kiểm toán viên lập
rủi ro kiểm toán mong muốn cho toàn bộ báo cáo tài chính ở mức trung bình
vì số người sử dụng báo cáo tài chính hạnh chế và lợi nhuận từ hoạt động
Luận văn tốt nghiệp - 22 -
trước đây là binh thường thì kiểm toán viên có khả năng sử dụng mức rủi ro
kiểm toán trung bình đối với các khoản phải thu, tài sản cố định và tất cả các
khoản mục chủ yếu khác.
Kiểm toán viên thường dùng cùng một mức rủi ro kiểm toán mong
muốn đối với từng bộ phận vì các yếu tố có ảnh hưởng đến rủi ro kiểm toán
mong muốn thường liên quan đến toàn bộ cuộc kiểm toán chứ không phải đến
từng bộ phận riêng biệt. Tuy vậy trong một số trường hợp đặc biệt, một mức
rủi ro kiểm toán mong muốn lớn hơn có thể thích hợp hơn bộ phận này so với
bộ phận khác. Trong ví dụ trên, cho dù kiểm toán viên quyết định sử dụng rủi
ro kiểm toán trung bình đối với cuộc kiểm toán nói chung, kiểm toán viên có
thể quyết định giảm rủi ro kiểm toán mong muốn xuông thấp hơn đối với
hàng tồn kho nếu hàng tồn kho được sử dụng như là một vật thế chấp cho một
khoản vay ngắn hạn.
1.2.3.2Mối quan hệ giữa các loại rủi ro
Qua nghiên cứu các loại rủi ro và mô hình rủi ro kiểm toán, chúng ta
thấy rằng rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm
toán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát khác với rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán ở chỗ các loại rủi ro
này tồn tại độc lập, khách quan với các thông tin tài chính. Rủi ro tiềm tàng
và rủi ro kiểm soát nằm trong chức năng hoạt động kinh doanh và môi trường
quản lý của doanh nghiệp cũng như trong bản chất của số dư tài khoản, các
loại nghiệp vụ cho dù có hay không có công việc kiểm toán. Rủi ro tiềm tàng
và rủi ro kiểm soát có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nên kiểm toán viên

• Mỗi loại rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát đều được chia thành ba
mức: cao, trung bình, thấp
• Vùng tô đậm thể hiện mức độ rủi ro phát hiện
Luận văn tốt nghiệp - 24 -
• Rủi ro phát hiện được chia thành năm mức: cao nhất, cao, trung
bình, thấp, thấp nhất
1.2.4 Đánh giá rủi ro kiểm toán
1.2.4.1Đánh giá rủi ro tiềm tàng
Rủi ro tiềm tàng được kiểm toán viên đánh giá cho toàn bộ báo cáo tài
chính trong khi lập kế hoạch kiểm toán. Đồng thời kiểm toán viên cũng xác
định rủi ro tiềm tàng cho các số dư hoặc các loại nghiệp vụ trong khi lập
chương trình kiểm toán.
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt nam 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm
soát nội bộ” : “Khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm
toán phải đánh giá rủi ro tiềm tàng cho toàn bộ báo cáo tài chính của đơn vị
được kiểm toán. Khi lập chương trình kiểm toán, kiểm toán viên phải xác định
cụ thể mức độ rủi ro tiềm tàng cho các số dư và các loại nghiệp vụ quan trọng
đến từng cơ sở dẫn liệu. Trường hợp không thể xác đinh cụ thể thì kiểm toán
viên phải giả định rằng rủi ro tiềm tàng là cao cho cơ sở dẫn liệu đó. Căn cứ
vào mức độ đánh giá rủi ro tiềm tàng để dự kiến các công việc, thủ tục kiểm
toán sẽ được thực hiện cho các nghiệp vụ, các khoản mục trọng yếu trên báo
cáo tài chính, hoặc các nghiệp vụ, khoản mục mà kiểm toán viên cho là có rủi
ro tiềm tàng cao”.
a. Đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện báo cáo tài chính
Trên phương diện báo cáo tài chính, kiểm toán viên đánh giá rủi ro
tiềm tàng dựa vào các nhân tố chủ yếu sau:
 Sự liêm khiết, kinh nghiệm và sự hiểu biết của Ban Giám Đốc cũng như sự
thay đổi thành phần ban quản lý xảy ra trong niên độ kế toán trước. Ban
Giám Đốc không thể xem là hoàn toàn trung thực trong mọi trường hợp.
Trong trường hợp Ban Giám đốc bị kiểm soát bởi một hoặc một số ít cá


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status